Ung thư tuyến giáp: Gánh nặng ngày càng tăng
Theo ghi nhận Globocan 2022, ung thư tuyến giáp tại Việt Nam đã tăng nhanh chóng mặt, vượt từ vị trí thứ 9 lên thứ 6 về tần suất mắc (tăng 3 bậc năm 2020: thứ 9 ). Phân loại mô bệnh học chia thành 2 nhóm chính: thể biệt hóa (chiếm đa số) và thể không biệt hóa (bao gồm thể tủy và thể kém biệt hóa).
Phác đồ chuẩn được áp dụng cho phần lớn các bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa là phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp kết hợp điều trị I-131 và điều trị nội tiết. Tuy nhiên, khoảng 10-13% bệnh nhân không may rơi vào tình trạng kháng I-131 – tức bệnh tiến triển hoặc tái phát dù đã điều trị đúng phác đồ. Tiên lượng cho nhóm này xấu đi rõ rệt, thời gian sống thêm giảm đáng kể. Tiêu chuẩn chẩn đoán kháng I-131 hiện dựa theo Hướng dẫn của Hiệp hội Tuyến giáp Hoa Kỳ (ATA) 2015.

Sinh học phân tử: Chìa khóa giải mã và điều trị cá thể hóa
TS.BS. Phạm Văn Thái nhấn mạnh: Sinh học phân tử đã cách mạng hóa chiến lược điều trị cho nhóm bệnh nhân kháng I-131. Các nghiên cứu đã phát hiện nhiều đột biến gen đặc trưng (như BRAF, RAS, RET, NTRK, ALK…) liên quan đến cơ chế bệnh sinh và kháng thuốc.
- Xác định đích tấn công: Tùy thuộc vào loại đột biến gen cụ thể (ví dụ: BRAF, RET, NTRK), các thuốc điều trị đích (Targeted Therapy) tương ứng sẽ được lựa chọn.
- Hiệu quả vượt trội: Các thuốc điều trị đích như Lenvatinib, Sorafenib, Selpercatinib, Pralsetinib, Larotrectinib/Entrectinib đã chứng minh hiệu quả ấn tượng qua các nghiên cứu lâm sàng lớn (SELECT, LIBRETTO-001, ARROW, NAVIGATE):
- Tỷ lệ đáp ứng (ORR) có thể lên tới 65-80%.
- Thời gian sống thêm không tiến triển (PFS) kéo dài đáng kể (Ví dụ: từ 18.4 tháng với Lenvatinib so với 3.7 tháng ở nhóm giả dược trong nghiên cứu SELECT).
- Thời gian sống thêm toàn bộ (OS) cũng được cải thiện (Ví dụ: OS đạt tới 54.2 tháng trong một số nghiên cứu).
Hiệu quả cả trên bệnh nhân không xác định được đột biến: Đáng chú ý, các nghiên cứu đời thực (như trên 316 bệnh nhân tại Mỹ) cho thấy thuốc đích như Lenvatinib vẫn mang lại lợi ích lâm sàng rõ rệt ngay cả trên nhóm bệnh nhân không làm được xét nghiệm gen hoặc không có đột biến đích rõ ràng, với tỷ lệ kiểm soát bệnh (PFS tại 24 tháng) đạt 69.8 – 74%.
Khi nào nên áp dụng liệu pháp đích
Câu hỏi quan trọng là thời điểm bắt đầu liệu pháp đích. TS. Thái giới thiệu thang điểm nguy cơ 8 điểm do các nhà khoa học Nhật Bản phát triển (2022), giúp phân tầng bệnh nhân và định hướng điều trị:
Các yếu tố đánh giá: Tuổi, triệu chứng lâm sàng, vị trí/kích thước tổn thương, đặc điểm mô bệnh học, tỷ lệ bạch cầu lympho, tốc độ tiến triển bệnh.
Phân nhóm nguy cơ:
- 0-2 điểm: Nguy cơ thấp → Ưu tiên theo dõi.
- 3-5 điểm: Nguy cơ trung bình → Cân nhắc điều trị đích.
- 6-8 điểm: Nguy cơ cao → Chỉ định điều trị đích.
Các hướng dẫn quốc tế (như NCCN, ESMO) cũng nhấn mạnh vai trò bắt buộc đánh giá đặc điểm sinh học phân tử để lựa chọn phác đồ tối ưu cho bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tiến triển/kháng I-131.
TS.BS. Phạm Văn Thái khẳng định: “Sinh học phân tử đã trở thành trụ cột không thể thiếu trong chiến lược điều trị cá thể hóa ung thư tuyến giáp thể biệt hóa kháng I-131. Bên cạnh các thuốc đích đã có mặt tại Việt Nam, chúng tôi kỳ vọng trong thời gian tới, ngày càng nhiều thuốc mới, hiệu quả hơn sẽ được cấp phép, mang lại thêm cơ hội sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.”
Bài trình bày của TS.BS. Phạm Văn Thái đã cung cấp cái nhìn toàn diện và cập nhật về vai trò then chốt của sinh học phân tử trong quản lý ung thư tuyến giáp thể biệt hóa kháng I-131. Việc ứng dụng các kỹ thuật xét nghiệm gen và các liệu pháp điều trị đích tương ứng không chỉ là xu thế của y học hiện đại mà đã trở thành giải pháp thiết thực, mang lại hy vọng mới cho nhóm bệnh nhân có tiên lượng xấu trước đây./.

