Mề đay do lạnh
Khi gặp thời tiết lạnh, một số người mẫn cảm với
lạnh có thể nổi mề đay ở vùng da tiếp xúc với lạnh hoặc khắp thân mình. Nếu bị
ngâm nhúng cơ thể hoặc một phần chi dưới trong nước lạnh có thể gây ra các
triệu chứng toàn thân nặng hoặc bị sốc. Đối với người mẫn cảm như vậy thì việc
nhận biết rối loạn do nhiễm lạnh là rất quan trọng vì có thể bị tử vong khi bơi
trong nước lạnh. Chứng nổi mề đay do lạnh thường có tính di truyền, khi nhiễm
lạnh, bệnh nhân có cảm giác như bị bỏng trên da xảy ra sau khi phơi nhiễm với
lạnh khoảng 30 phút. Một số ít trường hợp nổi mề đay khi gặp lạnh có liên quan
đến việc đang mắc bệnh nhiễm khuẩn như bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.
Đa số các trường hợp mề đay do lạnh mắc phải đều chưa rõ nguyên nhân. Muốn thử
xem có bị nổi mề đay khi nhiễm lạnh, ta dùng một khối nước đá áp vào da cẳng
tay trong 4-5 phút rồi bỏ ra, quan sát vùng da đó trong 10 phút: khi da ấm trở
lại, một vòng mề đay xuất hiện kèm theo ngứa. Sở dĩ bị nổi mề đay và ngứa như vậy
là do histamin và các chất trung gian khác được giải phóng khi nhiễm lạnh giống
như trong các phản ứng dị ứng.

Tổn thương ngón tay trong hiện tượng Raynaud
Hiện tượng Raynaud
Hiện tượng Raynaud thường gặp do lạnh với
biểu hiện trắng hoặc tím ngón tay từng đợt. Lúc đầu có thể chỉ ở một hoặc hai
ngón tay, sau tiến triển toàn bộ các ngón tay lan ra lòng bàn tay, nhưng hiếm
khi bị ở ngón tay cái. Giai đoạn hồi phục thấy đỏ rõ, giật, dị cảm và sưng nhẹ.
Hiện tượng Raynaud thường tự hết hoặc khi trở lại nơi ấm áp hay ngâm tay vào nước
ấm. Tổn thương gồm: tê cóng, cứng, giảm cảm giác và đau nhức, teo mô mỡ tận
cùng và da đầu chi, loét hoại tử gần móng tay. Bệnh hay gặp ở phụ nữ từ 15-45
tuổi. Điều trị: cần giữ ấm cơ thể và tay nhất là phải bảo vệ khi ra ngoài trời
lạnh.
Hạ thân nhiệt
Hạ thân nhiệt là bị giảm nhiệt độ trong sâu cơ thể
(ở trực tràng) xuống dưới 35oC, dẫn đến giảm các họat động sinh lý, giảm tiêu
thụ ôxy và làm chậm sự tái phân cực cơ tim, giảm dẫn truyền thần kinh ngoại vi,
giảm nhu động dạ dày, ruột, hô hấp, cô đặc máu và viêm tụy. Cơ thể tự vệ bằng
phản ứng co mạch máu bề mặt và tăng sản xuất nhiệt chuyển hóa. Bệnh nhân bị hạ
thân nhiệt khi phơi nhiễm kéo dài với lạnh hoặc rất lạnh trong môi trường không
khí hay nhúng nước. Tình trạng này có thể gặp ở những người khỏe mạnh bị
nhiễm lạnh trong quá trình lao động, sinh hoạt hoặc bị tai nạn trong thiên tai,
bão lụt. Đối tượng có nguy cơ cao hạ thân nhiệt gồm: ở thời tiết lạnh như rét
đậm, rét hại, người già, trẻ em và người không hoạt động sống trong những ngôi
nhà không đủ sưởi ấm; bệnh nhân bị bệnh tim mạch, mạch máu não, chậm phát triển
tâm thần, thiếu dinh dưỡng, phù niêm, nhược năng tuyến yên, nghiện rượu dễ bị
hạ thân nhiệt đột ngột; dùng các thuốc an thần…
Bệnh nhân bị hạ thân nhiệt có các triệu chứng sau:
mệt mỏi, buồn ngủ, ngủ lịm, trạng thái kích thích, lú lẫn và mất sự phối hợp.
Khi nhiệt độ cơ thể quá thấp, bệnh nhân bị mê sảng, buồn ngủ, hôn mê và có thể
ngừng thở. Không đo được huyết áp và nhịp mạch. Bệnh nhân bị nhiễm acid
chuyển hóa, tăng kali huyết, viêm phổi, viêm tụy, rung thất, hạ glucose huyết
hay tăng glucose huyết, rối loạn đông máu và suy thận. Các rối loạn nhịp tim
trực tiếp liên quan đến hạ thân nhiệt, tử vong do suy tim hoặc rung thất.
Điều trị: Bệnh nhân hạ nhiệt nhẹ (nhiệt độ trực
tràng trên 33oC) thường đáp ứng tốt với giường ủ ấm hoặc sưởi ấm bằng cách tắm
ấm hoặc đắp chăn ấm. Bệnh nhân hạ nhiệt vừa hay nặng (nhiệt độ trực tràng dưới
33oC) cần sưởi ấm tích cực, trợ tim mạch, cân bằng acid base, ôxy động mạch và
khối lượng tuần hoàn đầy đủ. Cần đặt ống nội khí quản, đảm bảo cung cấp đủ ôxy
cho bệnh nhân, truyền dịch ấm và điều trị nhiễm acid chuyển hóa. Dùng kháng
sinh đối với bệnh nhân là trẻ sơ sinh, người già hoặc bệnh nhân bị suy giảm
miễn dịch.
Thục Anh
Suckhoedoisong.vn

