Lợi ích của Pet/Ct trong ung thư chưa rõ nguyên phát

pet.jpg

Rất nhiều trường hợp
bệnh nhân có biểu hiện di căn rất rõ nhưng vị trí tổn thương nguyên phát không
tìm thấy được, điều này gây cản trở đến chiến lược điều trị và rõ ràng là hiệu
quả điều trị không cao, tỷ lệ tử vong cao và thời gian sống thêm thấp.

Vị trí di căn thường gặp
nhất là hạch ở hố thượng đòn và vùng cổ, sau đó là não và xương với chẩn đoán
mô bệnh học là ung thư biểu mô tế bào vẩy, ung thư biểu mô tuyến; loại ung thư
biểu mô không biệt hoá có tỷ lệ ít hơn.

Việc chẩn đoán những
trường hợp ung thư này đòi hỏi sự đánh giá toàn diện, phụ thuộc sự thăm khám
lâm sàng, bệnh sử, kết quả xét nghiệm mô bệnh học, hoá mô miễn dịch và chất chỉ
điểm khối u… Các kỹ thuật chẩn đoán cơ bản bao gồm những phương pháp dễ tiếp
cận và phổ biến như siêu âm, nội soi, chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ,… Nhưng
những phương pháp chẩn đoán hình thái này trong một số trường hợp có độ nhạy và
độ đặc hiệu chưa cao, không tìm thấy tổn thương nguyên phát.

Đó chính là lý do vì sao
cần có một phương pháp có thể hỗ trợ các kỹ thuật khác để chẩn đoán nhanh,
chính xác, với độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong việc xác định vị trí của ung
thư nguyên phát. PET/CT là kỹ thuật có thể đảm bảo được các yêu cầu đó.

Nguyên lý cơ bản của kỹ
thuật chụp PET/CT là ghi lại hình ảnh chuyển hóa trong tế bào (ở mức độ phân
tử, mức độ tế bào). Sau đó ghi lại hình ảnh bằng máy PET/CT sẽ cho chúng ta
thông tin về các thay đổi chuyển hóa của tế bào tổ chức (bằng máy PET), vừa xác
định được vị trí chính xác của tổn thương (bằng máy CT).

PET/CT có tác dụng đặc
biệt đối với ung thư. Tại những tổ chức bệnh lý sẽ tập trung hoạt tính phóng xạ
cao hơn tổ chức lành xung quanh. Mặt khác, các hoạt động chuyển hóa trong các
tổ chức ung thư thường xuất hiện sớm hơn nhiều so với những thay đổi về cấu
trúc. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính (CT), cộng hưởng
từ (MRI), siêu âm… chỉ phát hiện và đánh giá được các tổn thương đã có
những thay đổi về cấu trúc giải phẫu ở mức độ đủ lớn. Các phương pháp này
thường gặp khó khăn hoặc dễ bỏ sót các tổn thương có đường kính < 1cm. Trong
khi đó chụp hình toàn thân bằng PET/CT có thể phát hiện được các bất thường về
chuyển hóa, ghi được những hình ảnh bệnh lý sớm, còn nhỏ thậm chí  khi
chưa có thay đổi về cấu trúc là khi tổ chức ung thư phải bị phá hủy ở một mức
độ đủ lớn thì các thiết bị này mới có thể phát hiện được (quan sát được bằng
mắt thường). Sự kết hợp giữa máy PET và máy CT hai trong một là một thành quả
to lớn của nền y học thế giới giúp cho chúng ta có thể chẩn đoán bệnh ung thư
sớm và chính xác.

 Ở những bệnh nhân
ung thư sau phẫu thuật, xạ trị, hóa trị các tổn thương có thể biến dạng, thay
đổi cấu trúc nên hình ảnh CT, MRI có nhiều hạn chế trong việc xác định các tổ
chức còn sót, không phân biệt được tổ chức xơ hóa với tái phát, di căn…Kỹ thuật
PET cho phép khắc phục nhược điểm đó của CT và MRI. Vì vậy độ nhạy, độ đặc hiệu
để chẩn đoán ung thư của PET/CT cao hơn rất nhiều các phương pháp chẩn đoán hình
ảnh khác, chính vì vậy hiệu quả kinh tế, xã hội của của PET và PET/CT là rất rõ
rệt.

Sau đây là một trong
hàng trăm ca lâm sàng đã được chẩn đoán bằng kỹ thuật chụp PET/CT tại Trung tâm
Y học hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai.

Bệnh nhân Nguyễn Thị B.,
48 tuổi,
chẩn đoán: ung thư  biểu mô di căn hạch cổ chưa rõ nguyên phát. Bệnh nhân
từ tháng 7 năm 2009 nổi hạch cổ phải, hạch to dần. Bệnh nhân đến Bệnh viện Bạch
Mai làm xét nghiệm tế bào học hạch cổ phải, kết quả là tổn thương ác tính, nghĩ
đến carcinoma không biệt hoá. Bệnh nhân được làm sinh thiết hạch cổ phải với
kết quả giải phẫu bệnh là: hạch di căn của ung thư biểu mô. Bệnh nhân nhập viện
và được làm các xét nghiệm chẩn đoán cơ bản:

  • Các chỉ điểm khối u đều trong giới hạn bình thường: aFP=1,7ng/ml; CEA=1,2
    ng/ml; CA19-9=19,2 U/ml; CA15-3=5,4 U/ml; CA 125=20 U/ml; CA72-4=0,9 U/ml.
  • Siêu âm vùng cổ và tuyến giáp: dọc cơ ức đòn chũm phải và trái có nhiều
    hạch to nhỏ kích thước nhỏ hơn 1,5cm.
  • Siêu âm ổ bụng và phần phụ không phát hiện tổn thương bất thường.
  • CT lồng ngực: không thấy hình ảnh bất thường.
  • Nội soi tai mũi họng: không phát hiện thấy tổn thương.
spect1.jpg
  • Nội soi đại tràng và nội soi dạ dày-tá tràng bình thường

Trường hợp này nếu dựa
vào các thông tin trên, bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư chưa rõ nguyên
phát. Chúng tôi quyết định chụp PET/CT đối với bệnh nhân này tại Trung tâm Y
học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.

spect2.jpg

Hình 1: Hình ảnh PET
tổng thể cho thấy các tổn thương tăng hấp thu
FDG bất thường tại các vị trí mũi
tên

spect3.jpg

pet.jpg

Hình 2c: Hình PET/CT thấy tổn thưởng tăng hấp thu
FDG tại vùng vòng họng bên trái

spect4.jpg

Hình 3: Hình ảnh PET/CT cho thấy tổn thương di căn hạch cổ trái.

spect5.jpg

                               
  Hình 4: Hình ảnh di căn hạch thượng đòn trái

Kết quả PET/CT: tổn
thương tăng hấp thu FDG mạnh tại vòm họng bên trái, max SUV=11,8, các tổn
thương di căn hạch tại vùng cổ bên phải và bên trái.

Trong khi đó kết quả nội
soi vòm họng và CT không phát hiện thấy tổn thương u nguyên phát (CT-) bởi vì
tổn thương ở mức độ chưa xâm lấn ra bề mặt niêm mạc vòm họng và mà mắt chưa thể
nhận thấy được  qua  nội soi, CT…

Dựa vào các kết quả
trên, bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư vòm họng di căn hạch cổ hai bên. Đồng
thời đánh giá được giai đoạn bệnh của bệnh nhân là T1N2M0, kế hoạch điều trị
tiếp theo là xạ trị phối hợp hoá trị.

Như vậy, ghi hình bằng
máy PET/CT đã giúp ích rất nhiều trong việc chẩn đoán,  phát hiện tổn
thương ung thư nguyên phát một cách chính xác, nhanh chóng, hiệu quả mà các xét
nghiệm khác như CT, MRI… chưa phát hiện được.

PGS
TS. Mai Trọng Khoa , Bs Nguyễn Xuân Thanh, Bs Trần Hải Bình
Trung
tâm Y học hạt nhan và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng