Giới thiệu các phương pháp điều trị sỏi thận ít sang chấn

Với những thành tựu vượt
bậc trong các lĩnh vực: chẩn đoán hình ảnh, công nghệ và trang thiết bị
nội
soi, dụng cụ phá sỏi…từ năm 1980 trở lại đây, một loạt các phương pháp
điều trị
sỏi thận không sang chấn ( non-invasive ) hoặc ít sang chấn (
mini-invasive )
đã ra đời và ngày càng hoàn thiện [6]. Các phương pháp chủ yếu điều trị
sỏi
thận ít sang chấn hiện tại bao gồm: lấy sỏi thận qua da ( percutaneous
nephrolithotomy – PCNL ), tán sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng (
retrograde transureteral nephrolithotripsy ), lấy sỏi thận bằng phẫu
thuật nội
soi trong hoặc sau phúc mạc ( transperitoneally or retroperitoneally
laparoscopic pyelolithotomy ). Chúng tôi xin giới thiệu một cách tổng
quan về
các phương pháp này như sau.

I. LẤY SỎI THẬN QUA DA 

1.1.
Lịch sử

Năm 1976, Fernstrom và Johanson thông báo trường
hợp đầu tiên lấy sỏi
thận qua da qua dẫn lưu thận đã được đặt trước đó. Năm 1979, Smith các
đồng
nghiệp đã mô tả thủ thuật tạo đường vào hệ tiết niệu qua da như là một
thủ
thuật nội soi niệu và ông đã thông báo 5 trường hợp điều trị sỏi thận và
niệu
quản bằng đường dẫn lưu thận xuyên da. Sự phát triển và cải tiến các
dụng cụ
phá sỏi bằng điện thuỷ lực, siêu âm, xung hơi và laser đã nhanh chóng
làm cho
việc lấy sỏi qua da với những viên sỏi lớn trở nên dễ dàng hơn [12]. Kỹ
thuật
này được ưa chuộng hơn mổ mở nhờ  giảm
được tỷ lệ tai biến – biến chứng, ít đau đớn sau mổ và thời gian hồi
phục nhanh
hơn. 

1.2.
Chỉ định và chống chỉ định

1.2.1.
Chỉ định

Tất cả các loại sỏi thận, nói chung đều có thể được
lấy bằng đường qua
da. Tuy nhiên, tuỳ theo kích thước sỏi, kỹ năng của phẫu thuật viên mà
các
phương pháp điều trị khác có thể được ưa thích hơn [13]. Chỉ định PCNL
hiện tại
bao gồm [6]:

    – Sỏi trong túi thừa đài thận.

    – Sỏi thận kèm theo hẹp khúc nối niệu quản – bể
    thận cần phải can thiệp
    phẫu thuật chỉnh sửa.

    – Sỏi san hô, bán san hô, sỏi thận kích thước lớn (
    > 2,5 cm ), sỏi
    thận nhiều viên.

    – Bệnh nhân sỏi thận đã tán sỏi ngoài cơ thể thất
    bại hoặc chống chỉ
    định tán sỏi ngoài cơ thể.

    1.2.2.
    Chống chỉ định [6]

    * Chống chỉ định tuyệt đối: bệnh nhân có các rối
    loạn về đông máu chưa
    được điều trị ổn định.

    * Chống chỉ định tương đối:

    – Bệnh nhân có nhiễm khuẩn niệu, lao niệu chưa ổn
    định.

    – Bệnh nhân có thai.

    – Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao: già yếu, nhiều
    bệnh kết hợp.

    * Những bệnh nhân có sỏi
    thận trên thận dị dạng ( thận móng ngựa, thận dị dạng xoay, thận lạc chỗ
    ), dị
    dạng cột sống, hẹp đài bể thận, khi chỉ định PCNL cần thận trọng.

    1.3. Kết quả điều
    trị

    Kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp lấy sỏi
    qua da phụ thuộc
    nhiều vào việc lựa chọn bênh nhân, kinh nghiệm của phẫu thuật viên,
    trang thiết
    bị kỹ thuật. Tỷ lệ hết sỏi chung theo nghiên cứu của nhiều tác giả dao
    động
    trong khoảng từ  90 – 96%, thời gian nằm
    viện dưới 4 ngày, và hầu hết các bệnh nhân đều có thể vận động nhẹ nhàng
    được
    sau 24 giờ [6], [13], [12].

      Ở Việt Nam, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng ( 2003 ) báo cáo
      kết quả lấy sỏi thận
      qua da tại Bệnh viện Bình dân trên 50 trường hợp, kết quả tốt đạt 84%,
      thời
      gian nằm viện trung bình 6,36 ngày [1]. Lê Sĩ Trung và cộng sự ( 2002)
      nghiên
      cứu kết quả phối hợp điều trị sỏi niệu bằng PCNL và tán sỏi ngoài cơ thể
      cho
      kết quả tốt với tỷ lệ hết sỏi đạt 90,24% trong khi tỷ lệ hết sỏi khi
      điều trị
      bằng PCNL đơn thuần của chính tác giả chỉ đạt 51,22% [2].  

        1.4.
        Tai biến – biến chứng

        Mặc dù PCNL là một phương pháp điều trị ít sang
        chấn hơn mổ hở nhưng
        những tai biến – biến chứng vẫn có thể xảy ra trong quá trình chọc, nong
        tạo
        đường vào đài bể thận, tán và lấy sỏi [12]

          Xuyên thủng đài bể thận có thể xảy ra tại bất kỳ
          thời điểm nào trong
          suốt quá trình phẫu thuật. Tỷ lệ biến chứng chảy máu theo nghiên cứu của
          F.
          Esenberger (1991) là: cần phải truyền máu chiếm 10%; 2% phải cắt thận và
          1% cần
          phải can thiệp làm tắc mạch [6].

            Nhiễm khuẩn niệu và nhiễm khuẩn huyết có thể xảy
            ra. Tràn khí hoặc
            tràn dịch màng phổi thường gặp trong các trường hợp cần tạo đường vào
            đài bể
            thận từ phía trên bờ sườn với tỷ lệ khoảng 2% [6].

              Mặc dù đã có sự hỗ trợ rất hiệu quả của các
              phương tiện chẩn đoán hình
              ảnh, tổn thương các cơ quan lân cận vẫn có thể xảy ra. Tổn thương thủng
              đại
              tràng gặp khoảng 0,2% các trường hợp [12].

                II. TÁN SỎI THẬN QUA NỘI SOI NIỆU QUẢN
                NGƯỢC DÒNG

                2.1.
                Lịch sử

                Năm 1912, trong khi soi bàng quang một bệnh nhi 2
                tháng tuổi có niệu
                quản dãn do van niệu đạo sau, Hugh Hampton Young đã đưa được máy soi 9,5
                Fr qua
                niệu quản lên tới đài bể thận [9].

                  Năm 1964, Marshall đã thông báo trường hợp đầu tiên
                  được soi niệu quản
                  bằng  ống soi mềm [9]. Sự tiến bộ vượt
                  bậc về công nghệ chế tạo máy, nội soi niệu quản ống mềm và các loại máy
                  tán sỏi
                  bằng laser, điện thuỷ lực Cho phép thực hiện thành công những trường hợp
                  tán
                  sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng [9]. 

                    2.2.
                    Chỉ định

                    Tán sỏi ngoài cơ thể tỏ ra hiệu quả trong trường
                    hợp sỏi thận đơn giản.
                    Chính vì lý do đó nên tán sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng
                    không phổ
                    biến, chỉ định hạn chế trong những trường hợp sau:

                      Sỏi thận đã điều trị bằng tán sỏi ngoài cơ thể
                      thất bại hoặc chống chỉ
                      định tán sỏi ngoài cơ thể.

                        Sỏi thận trên bệnh nhân có hẹp đường dẫn  niệu
                        trong thận như: sỏi nằm trong túi thừa
                        đài thận, đặc biệt trong trường hợp sỏi nằm ở túi thừa đài trên, sỏi
                        thận trên
                        bệnh nhân có hẹp khúc nối bể thận niệu quản…

                          Sỏi thận trên bệnh nhân bắt buộc phải lấy hết
                          sỏi: bệnh nhân là phi
                          công, phụ nữ trẻ đang dự định có thai, bệnh nhân chuẩn bị ghép
                          tạng…[8][9]

                            2.3.
                            Kết quả điều trị

                            Kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp tán sỏi
                            nội soi niệu quản
                            ngược dòng phụ thuộc vị trí, kích thước sỏi, trình độ phẫu thuật viên và
                            trang
                            thiết bị [9].

                              Bapat S ( 2006 ) sử dụng máy soi niệu quản – thận
                              ống mềm loại 7 Fr và
                              máy tán sỏi laser holmium điều trị 29 bệnh nhân sỏi thận, cho kết quả:
                              24
                              trường hợp hết sỏi, 3 trường hợp máy soi không tiếp cận được sỏi do sỏi
                              nằm
                              ngoài hệ thống đài bể thận [4].

                                Albert J. Mariani ( 2007 ) sử dụng kết hợp
                                máy tán sỏi điện thuỷ lực và
                                laser holmium tán sỏi thận có kích thước lớn ( > 4 cm ) cho kết quả
                                khả
                                quan: 15/17 trường hợp  ( 88% ) hết sỏi.
                                Tác giả cho rằng đây là một phương pháp điều trị ít tai biến – biến
                                chứng và
                                kết quả có thể so sánh với PCNL [3].

                                  2.4.
                                  Tai biến – biến chứng

                                  Tổn thương đài bể thận và niệu quản mức độ nhẹ,
                                  do yếu tố cơ học trong
                                  quá trình phẫu thuật là tai biến – biến chứng thường gặp nhất ( chiếm
                                  71% các
                                  tai biến – biến chứng ) [8]. Một số ít trường hợp niệu quản hoặc bể thận
                                  có thể
                                  bị thủng lỗ nhỏ, cần phải đặt JJ stent trong 4 – 6 tuần.

                                    Tổn thương niệu quản bể thận do nhiệt khi tán sỏi
                                    có thể dẫn tới biến
                                    chứng hẹp đường tiết niệu trên thứ phát. [8] [9].

                                      Nhiễm khuẩn niệu có triệu chứng chiếm khoảng
                                      1,3%, biến chứng chảy máu
                                      nặng trong tán sỏi thận nội soi niệu quản ngược dòng hiếm gặp các trường
                                      hợp
                                      nội soi niệu quản bể thận [8] [9].

                                        III- LẤY SỎI THẬN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI
                                        SOI TRONG HOẶC SAU PHÚC MẠC

                                        3.1.
                                        Lịch sử

                                        Phẫu thuật thận nội soi ổ bụng hiện tại là kết quả
                                        của một quá trình
                                        phát triển từ cách đây khoảng 200 năm. Năm 1804, Bozzini đã sử dụng,
                                        dụng cụ
                                        đầu tiên để chiếu sáng những khoang tối trong cơ thể sống [7]. Năm 1901,
                                        Jacobius đã báo cáo 15 trường hợp được bơm khí trời vào ổ bụng, sau đó
                                        đưa máy
                                        soi quan sát hỗ trợ chẩn đoán tình trạng tràn dịch ổ bụng. Vào năm 1983
                                        khi
                                        Semm đã cắt ruột thừa qua nội soi ổ bụng thành công [7].

                                          Chỉ tới những năm gần đây, việc ứng dụng phẫu thuật
                                          nội soi ổ bụng trên
                                          tiết niệu mới phát triển mạnh mẽ. Năm 1990, Clayman và cộng sự đã thực
                                          hiện
                                          thành công một trường hợp cắt thận [7]. Thành công này đã làm nền cho sự
                                          phát
                                          triển đa dạng của các phẫu thuật trên hệ tiết niệu qua nội soi ổ bụng cả
                                          trong
                                          và ngoài phúc mạc [7].

                                            3.2.
                                            Chỉ định và chống chỉ định

                                            3.2.1.
                                            Chỉ định [7] 

                                            Bệnh nhân sỏi thận đã điều trị bằng tán sỏi ngoài
                                            cơ thể, hoặc lấy sỏi
                                            thận qua da, hoặc tán sỏi nội soi niệu quản ngược dòng thất bại.

                                              Bệnh nhân sỏi thận trên thận không bình thường về
                                              giải phẫu như thận
                                              trong hố chậu, hẹp khúc nối niệu quản bể thận cần phải phẫu thuật tạo
                                              hình…

                                                Bệnh nhân có sỏi thận thuộc loại khó phá vỡ như
                                                sỏi cystine.

                                                  3.2.2.
                                                  Chống chỉ định [7]

                                                  Bệnh nhân có rối loạn về đông máu chưa được điều
                                                  trị ổn định.

                                                    Bệnh nhân đang có nhiễm khuẩn niệu hoặc nhiễm
                                                    khuẩn cấp tính các cơ
                                                    quan khác chưa được điều trị ổn định.

                                                      Bệnh nhân đang có sốc do giảm thể tích máu lưu
                                                      hành.

                                                        3.3.
                                                        Kết quả điều trị

                                                        Năm 1994, Gaur và cộng sự báo cáo thành công 5/8
                                                        trường hợp mở bể thận
                                                        lấy sỏi qua nội soi ổ bụng ngoài phúc mạc, 2 trường hợp không thành công
                                                        do tạo
                                                        khoang sau phúc mạc thất bại và 1 trường hợp sỏi di chuyển lên đài trên
                                                        thận
                                                        [7].

                                                          Nhiều tác giả đã mở bể thận lấy sỏi qua
                                                          nội soi ổ bụng trong phúc mạc
                                                          thành công trên bệnh nhân thận lạc chỗ có sỏi đường kính tới 4 cm (
                                                          Chang và
                                                          Dretler, 1996; Harmon, 1996; Hoenig, 1997 )[7].

                                                            3.4.
                                                            Tai biến và  biến chứng

                                                            Tổn thương các động mạch, tĩnh mạch, nhánh mạch
                                                            máu có thể phải chuyển
                                                            mổ mở cầm máu [5] [7].

                                                              Một số tai biến – biến chứng liên quan tới đặt
                                                              trocar. Tổn thương ruột
                                                              trong quá trình phẫu thuật gặp khoảng 0,13% các trường hợp, trong đó tới
                                                              69%
                                                              không được phát hiện trong lúc mổ [7].

                                                                TÀI LIỆU THAM KHẢO

                                                                1. Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng và CS ( 2003 ), “Lấy sỏi
                                                                  thận qua da: kết quả
                                                                  sớm sau mổ qua 50 trường hợp tại Bệnh viện Bình Dân”, Y học TP. Hồ Chí
                                                                  Minh,
                                                                  Hội nghị KHKT lần thứ 20, tập 2 ( Phụ bản của số 1 ), Tr. 66 – 74.
                                                                2. Lê Sĩ Trung (
                                                                  2002 ), ” Đáng giá kết quả bước đầu phương pháp nội soi tán sỏi qua da
                                                                  phối hợp
                                                                  với tán sỏi ngoài cơ thể trong điều trị ngoại khoa sỏi tiết niệu “, Tạp
                                                                  chí
                                                                  Ngoại khoa, kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học tham gia hội nghị Ngoại
                                                                  khoa
                                                                  quốc gia Việt Nam lần thứ 12, Tr. 279 – 283.
                                                                3. Albert J. Mariani ( 2007 ), ” Combined
                                                                  electrohydraulic and holmium: YAG laser ureteroscopic nephrolithotripsy
                                                                  of
                                                                  large ( greater than 4 cm ) renal calculi “,The Journal of Urology, 177,
                                                                  p. 168 – 173.
                                                                4. Bapat S, Pai K, et al ( 2006 ), ” Retrograde
                                                                  intrarenal surgegy ( RIRS ), study of 31 cases “,  Urology, 68 (5A),
                                                                  Elsevier Science
                                                                  Inc, p. 205.
                                                                5. Craig A. Peters, M.D., Louis R. Kavoussi,
                                                                  M.D., ” Laparoscopy in children and adult “, Campell’s  urology (3) W.
                                                                  B. Saunders company,
                                                                  Philadelphia – USA, p. 2875 – 2912.
                                                                6. F. Eiswnberger, K. Miller, J. Rassweiler (
                                                                  1991 ), Stone therapy in urology, Thieme Medical Publishers, Inc., New
                                                                  York.
                                                                7. Jay T. Bishoff, M.D. ( 2007 ), ” Laparoscopic
                                                                  surgery of the kidney “, Campbell – Wash Urology (2), Saunders company,
                                                                  Philadelphia – USA.
                                                                8. Jeffry L. Huffman, M.D., Demetrius H. Bagley,
                                                                  M.D. ( 1988 ), Ureteroscopy, W. B. Saunders company, Philadelphia
                                                                  – USA.
                                                                9. Jeffry L. Huffman, M.D. ( 1998 ), ”
                                                                  Ureteroscopy “, Campell’s  urology
                                                                  (3) W. B. Saunders company, Philadelphia – USA, p. 2755 – 2788.
                                                                10. Joseph W. Segura, M.D. (1996 ), ”
                                                                  Percutaneous surgery “, Smith’s textbook of endourology (1), Quality
                                                                  Medical Publishing, Inc, Canada, p. 153 – 368.
                                                                11. Mani Menon, M.D. (1998), ” Urinary
                                                                  lithiasis: Etiology, Diagnosis, and Medical management “, Campell’s 
                                                                  urology (3), W.B. Saunders company,
                                                                  p.2661 – 2734.
                                                                12. Ralph V. Clayman, M.D., Elspeth M. McDougal,
                                                                  M.D. ( 1998 ), ” Endourology of upper urinary tract: percutaneous renal
                                                                  and
                                                                  ureteral procedure “, Campell’s 
                                                                  urology (3) W. B. Saunders company, Philadelphia
                                                                  – USA,
                                                                  p. 2789 – 2874.
                                                                13. S. R. Payne, D. R. Webb ( 1988 ), Percutaneous
                                                                  renal surgery, Churchill Livingstone, London.

                                                                Nguyễn Minh Tuấn
                                                                Khoa Ngoại BV Bạch
                                                                Mai

                                                                
                                                                086 9587728
                                                                [contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
                                                                [contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng