Dinh dưỡng với bệnh sâu răng

I. Yếu tố gây bệnh sâu răng:

1. Đường và thực phẩm có đường:

Đường saccarose
là loại đường gây sâu răng nhiều nhất, sau đó là các loại thông dụng
trong chế độ
ăn hàng ngày khác như glucose, fructose, maltose. Vì vậy sẽ không ích
lợi nhiều
nếu thay đường saccarose bằng các loại đường kể trên trong mục đích
giảm khả năng gây sâu răng. Carbohydrat dễ lên men như các loại đường
saccarose,
glucose, fructose, maltose, lactose có trong mật ong, mật vàng, mật mía,
trái
cây tươi, khô hoặc đóng hộp, nước ngọt… đều là những món ăn ưa thích
của vi
khuẩn. Chỉ một chút đường trong bánh kẹo cũng làm cho các món ăn này
dính lâu
trong miệng, tạo điều kiện thuận lợi cho tác dụng của vi khuẩn.

2. Tinh bột:

Nghiên cứu dịch tễ
học cho thấy tinh bột có ít nguy cơ gây sâu răng. Những người có chế độ
ăn nhiều
tinh bột/ít các đường nói chung có mức sâu răng thấp, trong khi những
người
tiêu thụ các chế độ ăn ít tinh bột/ nhiều đường có mức sâu răng cao. Bản
chất
không đồng nhất của tinh bột ( đó là mức độ tinh chế, nguồn gốc thực
vật, thô
hay được nấu ) là đặc biệt thích hợp khi đánh giá khả năng gây sâu răng
tiềm
tàng của nó. Một vài thử nghiệm cho thấy rằng tinh bột thô có khả năng
gây sâu
răng thấp. Tinh bột được nấu chín có tính gây sâu răng bằng một phần ba
hoặc một
nửa khả năng gây sâu răng của saccarose. Tuy nhiên hỗn hợp tinh bột và
saccarose
có tiềm năng gây sâu răng nhiều hơn một mình tinh bột.

Đặc điểm của những loại thực
phẩm có nguy cơ gây sâu răng
( Hiệp hội vệ sinh răng miệng Hoa
Kỳ ):

Nhóm nguy cơ gây sâu răng
cao

Nhóm nguy cơ gây sâu răng thấp

– Hàm lượng carbohydrate lên
men cao( bột đường hoặc hỗn hợp )

– Thực phẩm được vỡ và làm
nhiều mảnh nhỏ trong miệng làm cho độ pH giảm < 5,5.

– Thực phẩm có độ dính.

– Thực phẩm được chế biến kỹ.

Ví dụ:

bánh mặn, các loại ngũ cốc ăn
liền có đường, bánh mỳ, bánh ngọt, quả khô, khoai tây rán..

– Lượng protein cao

– Ít chất béo

– Hàm lượng carbohydrate thấp
nhất

– Chứa nhiều canxi và
phospho

độ pH > 6

– Làm tăng sự tiết nước bọt

 

Ví dụ:

pho mát, thịt, lạc, sữa, trứng,
một số loại rau..

3. Thuốc dùng cho trẻ em có đường:

Hầu hết thuốc
kháng sinh, vitamin, xirô ho…. cho trẻ em 
dưới dạng dung dịch và đa số chứa một lượng lớn đường. Khi dùng thường
xuyên trong thời gian dài những thuốc này có thể gây hoặc gia tăng tốc
độ sâu răng.

4. Sự ăn mòn răng:

Là sự mất mô cứng
của răng tiến triển không thể đảo ngược mà trong đó mô cứng của răng bị
ăn mòn
hoá học từ bề mặt răng do các acid ngoại sinh hoặc nội sinh với một quá
trình
không có mặt của vi khuẩn. Các acid ngoại sinh trong chế độ ăn bao gồm
acid
citric, acid phospholic, acid ascorbic, acid malic, acid tartaric, acid
carbonic đã được tìm thấy nhiều trong các loại trái cây và nước ép trái
cây, đồ
uống có ga và dấm. Sự ăn mòn trong trường hợp nặng có thể dẫn đến phá
huỷ toàn
bộ răng. Các nghiên cứu đã cho thấy thường xuyên uống nước ép hoa quả,
đồ uống
có ga ( kể cả đồ uống thể thao ), dưa chua ( có dấm ), các loại trái cây
giống
cam quýt và quả mọng sự ăn mòn răng tăng.

 5. Sâu răng do bú bình:


dạng sâu răng do nuôi dưỡng đưa đến. Hầu hết những trường hợp này đều bú
bình
lúc đi ngủ hoặc vào giường với bình sữa cho đến khi ngủ.  Có khi bà mẹ
quá chiều trẻ hoặc không chịu được
trẻ quấy khóc ban đêm nên vẫn cho trẻ tiếp tục ngậm bình trong khi ngủ.

II. Lời khuyên về chế độ ăn:

1. Đường bột:

Khuyến cáo mức tiêu thụ đường tự do <
10kg/người/năm( trung bình khoảng 500g/người/tháng) giảm đáng kể tỉ lệ
sâu răng.
Hiện nay các chất ngọt không phải đường thay thế được dùng ngày càng
nhiều đặc
biệt trong công nghiệp bánh kẹo và thức uống giải khát, cả trong kẹo cao
su…

Chất
ngọt thay thế đường

Loại ngọt ít                                     
Loại ngọt
đậm

Sorbitol

Malnitol

Si
rô glucose thuỷ phân

Isomalt, xylitol,lactitol

Saccharin

Acesulfame
K

Aspatame

Thaumatin

Đây
là các chất ngọt gần như hoặc không mang tính gây sâu răng. Các loại
ngọt đậm
và xylitol không gây sâu răng, trong khi các loại ngọt ít hơn có thể
được vi
khuẩn mảng bám chuyển hoá nhưng với tốc độ rất chậm, các loại này có thể
xem như
an toàn, vài chất ngọt đã được cho phép dùng. Thuốc dùng cho trẻ em cũng
nên
cho các chất ngọt thay thế đường sẽ giảm tỉ lệ sâu răng cho trẻ.

2.
Dùng nguồn thức ăn giàu canxi, vitamin D:

Có trong sữa, rau quả xanh,
cá, phomat… giúp chống rụng răng và loãng
xương ở người lớn tuổi. Mặc dù ở nước ta thói quen ăn phomat chưa phổ
biến nhưng
đây là nguồn giàu chất canxi, khi ăn phomat, canxi sẽ được giải phóng,
bám vào
bề mặt răng và có tác dụng phục hồi bề mặt răng chống lại sự tấn công
của acid
gần như ngay lập tức.

3.
Rau quả:

Ăn
những loại thực phẩm không gây hại cho răng: như dưa chuột, bắp cải, súp
lơ, bí
xanh, bí đỏ, cà tím, củ cải, cà rốt, dưa gang, rau riếp… giúp làm sạch
răng và
loại bỏ mảng bựa vôi, chỉ nên ăn 200g/bữa nếu ăn nhiều sẽ gây táo bón,
khi ăn
nên nhai kỹ.

Loại thực phẩm  hại cho răng:  như chuối, chà là, nho, cà chua, đậu hà
lan,
quả vả, sung, táo ngọt, quả lựu, cam, quýt, quất, me chua…do chứa
nhiều carbohydrate
nhưng cũng không nên đoạn tuyệt vì chúng cũng có nhiều yếu tố có lợi cho
răng
miệng như làm sạch và chứa flurua.

Ta
có thể dùng xen kẽ loại thực phẩm gây sâu răng với thực phẩm không gây
sâu răng
thì sẽ tốt hơn. Ví dụ ăn bánh ga-tô dính răng sau đó lại nhai miếng
phomat thuỵ
sỹ thì sạch miệng mau hơn. Sữa có nhiều canxi, phospho nên có tác dụng
trung
hoà với thực phẩm dễ gây sâu răng như đường. Thức ăn tinh bột trắng (
bột loại
bỏ nhiều lớp vỏ bám bên ngoài của hạt ngũ cốc ) thì làm cho đường và
acid bám
chắc vào răng. vì thế  trong bữa ăn hàng
ngày ta nên xen kẽ các thức ăn tinh, thô với các thức ăn có nhiều chất

(xenlulose) sẽ làm cho răng chắc khoẻ và sạch răng.

Nhằm hạn chế tối đa sự xuất hiện của bệnh ăn mòn răng, số lượng và tần
xuất đồ
uống có ga và nước ép trái cây cần được giới hạn.

4.
Những chị em khi có thai và nuôi con bú:

Cần ăn uống đủ dinh dưỡng, canxi, vitamin D để giúp cơ thể hấp thụ tốt
canxi,
vì thiếu nó xương răng sẽ bị thiếu canxi, răng dễ bị hỏng trẻ nhỏ phải
chịu nhiều
hậu quả như suy dinh dưỡng, còi xương, mầm răng xấu….

5.
Trẻ em:

Đối
với trẻ em răng sữa liên quan đặc biệt tới sự tăng trưởng của hàm răng
khôn sau
này. Răng sữa giúp cho trẻ nhai thực phẩm, giữ cho hàm ở vị trí tốt cho
răng vĩnh
viễn vì thế cần phải chăm sóc răng cẩn thận.

Trẻ nhỏ cho bé uống sữa, nước hoa quả, nước lọc bằng cách đổ thìa, trẻ
lớn  nên dùng bằng cốc.

Không cho trẻ uống nước hoa quả, sữa… bằng
bình vì uống nước hoa quả bằng bình sẽ kéo dài thời gian răng bé tiếp
xúc với đường
và các acid từ hoa quả.

Không nên cho bé ngậm vú giả nhúng vào các
chất ngọt như mật ong, mứt hay nước si rô ngọt.

Tránh
cho trẻ ăn đồ ngọt suốt cả ngày, giới hạn lượng đồ ngọt và chỉ cho phép
bé ăn
trong thời gian bữa chính.

6.
Vệ sinh răng miệng nói chung cần có:

Súc
miệng sau khi ăn hoặc uống đồ ngọt, có thể dùng dung dịch TB,
chlorexedine…

Đánh
răng mỗi ngày 2 lần nhất là sau bữa ăn sáng và trước khi đi ngủ, dùng
kem đánh
răng có fluoride. Không nên đánh răng ngay sau khi ăn và uống nước trái
cây.
Lúc này lớp men răng sẽ mềm hơn dưới tác dụng của acid hữu cơ trong rau
và trái
cây, bàn chải sẽ làm mài mòn men răng vì thế nên đợi khoảng 30 phút,
nước bọt sẽ
phục hồi và cân bằng chất khoáng của răng rồi hãy làm sạch chúng bằng
bàn chải.

BS. Vũ
Thị Thanh
Khoa
dinh dưỡng- BVBM


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng