Cystatin C và những ích lợi trong lâm sàng

Định lượng nồng độ: ure, creatinin/ (huyết thanh, huyết tương hoặc nước
tiểu),.. Với những thông số trên cách đánh giá đôi khi có những sai biệt nhất định
so với mức lọc thực của cầu thận. Độ thanh thải Inulin
được xem là chính xác vì ít phụ thuộc vào khối cơ, khối mỡ thừa và những yếu tố
khác. Gần đây một số công trình nghiên cứu chứng minh rằng trị số cystatin C
có thể đánh giá mức lọc cầu thận (GFR) cho kết quả chính xác hơn những thông số
vẫn dùng trước đây.

1. Cystatin C là gì?

Cystatin C là một proten có trọng lượng phân tử 13 kDa, được sản
xuất từ hầu hết các tế bào có nhân trong cơ thể. Do trọng lượng phân tử nhỏ nên
cystatin C có thể dễ dàng chui qua màng lọc cầu thận và bị giáng hoá tại thận cụ
thể là ở các tế bào ống lượn gần của thận. Người ta thấy cystatin C có trong
máu, dịch não tủy, sữa và một lượng rất ít trong nước tiểu. (xem cấu trúc
trang cuối)

Chức năng của cystatin C: là điều hoà hoạt động của cystein protease, cụ thể
là ức chế enzym  này trong một số quá
trình sinh học trong cơ thể. Ở người khoẻ mạnh với chức năng thận hoạt động tốt,
cystatin C được lọc qua màng cầu thận và thận sẽ giữ lại  cystatin C, glucose và một số chất khác trong
quá trình lọc. Đồng thời đào thải một số chất khác như ure, creatinin và một số
chất hoà tan khác ra khỏi thận qua đường niệu quản xuống bàng quang và được bài
tiết ra khỏi cơ thể đó là nước tiểu. Do cystatin C luôn được sản xuất tại các tế
bào trong cơ thể và được chuyển hoá tại thận (cystatin C không trở lại máu nữa)
một cách đều đặn và như vậy nồng độ của cystatin C cũng luôn được giữ ở mức ổn định
khi chức năng thận vẫn còn tốt và hoạt động đều đặn.  Trong trường hợp chức năng thận bị tổn thương,
mức lọc cầu thận suy giảm,  những chất  cần đào thải tăng lên trong máu trong đó phải
kể đến như cystatin C .

Trị số bình thường của cystatin
C:

Nồng độ trong huyết tương và huyết
thanh cũng tương tự là 0,8- 2,5 mg/l.Trong dịch não tuỷ là 4-14 mg/l  và trong nước tiểu với nồng độ rất nhỏ khoảng
0,03- 0,3 mg/l (trị số này có thể khác nhau do phân tích bằng các phương pháp
khác nhau)

Từ các kết quả nghiên cứu trên lâm sàng
phối hợp với các phòng xét nghiệm đã cho thấy: cystatin C  là một protein trong huyết thanh mà có giá trị
như một chỉ tố sinh học (biomarker) trong thăm dò chức năng thận, đặc biệt mức
lọc cầu thận (glomerular filtration rate – GFR). Tiện ích cho lâm sàng của
cystatin C đến nay đã được xác nhận

2. Những ích lợi  của cystatin C- một chỉ tố sinh học mới  

Với các bệnh tại thận:

  • Do trọng lượng phân tử thấp nên
    cystatin C dễ dàng lọt qua màng lọc cầu thận, nồng độ cystatin C trong máu có
    liên quan với mức lọc cầu thận. Khác với creatinin trong máu, nồng độ cystatin
    C trong máu không phụ thuộc vào tuổi, giới, cân nặng, chiều cao và khối cơ của
    người bệnh.
  • Trong một số trường hợp, trị số
    creatinin huyết thanh sẽ không phản ánh sự tương thích với tình trạng người bệnh
    trên lâm sàng (mặc dù không có sai sót trong kỹ thuật phân tích hoá sinh), ví dụ
    với một bệnh nhân mắc bệnh thận có kèm mắc bệnh xơ gan, bệnh béo phì, người
    dinh dưỡng kém hoặc người có khối cơ bị giảm nhiều,… Trong những trường hợp
    này, cystatin C đặc biệt hữu ích giúp cho việc phát hiện sớm bệnh thận trong
    khi các thông số cũ như ure, creatinin, thanh thải creatinin  có thể hầu như bình thường.
  • Trong các trường hợp các bác sĩ nghi ngờ
    chức năng thận của người bệnh bị suy giảm 
    nhưng các kết quả thăm dò cũ như creatinin và mức lọc cầu thận cho thấy
    bình thường.
  • Sàng lọc bệnh thận tiềm ẩn ở những bệnh
    nhân trứơc khi chụp mạch thận (UIV) hoặc mạch máu có bơm thuốc cản quang
  • Hỗ trợ rất tốt cùng với các thông số
    khác như creatinin, độ thanh thải creatinin, mức lọc cầu thận trong sàng lọc và
    theo dõi tổn thương chức năng thận ở những bệnh nhân có nghi ngờ tổn thương thận,
    người suy thận cấp và mạn.

Các bệnh ngoài thận:

  • Giúp ích trong đánh gía và theo dõi các
    bệnh nhân có nguy cơ gia tăng các bệnh về tim mạch (rối loạn chuyển hoá lipid,
    béo phì, đái tháo đường,..) đột qụy và theo dõi chức năng thận ở người cao tuổi.
  • Với nhóm người có tích tụ các yếu tố
    nguy cơ cao về tim mạch đồng thời có trị số cystatin C cao sẽ có tỷ lệ mắc suy
    tim, đột qụy và thậm chí tử vong cao hơn hẳn so với các nhóm khác có cùng nguy
    cơ nhưng có trị số cystatin C ở mức trung bình hoặc thấp.

Những yếu tố có thể ảnh hưởng đến
nồng độ cystatin C:

Có một số phương pháp cũng như nguyên
lý đo nồng độ cystatin C, nhưng một số nghiên cứu gần đây thường dựa theo
nguyên lý đo độ đục miễn dịch. Cũng như trên đã đề cập, trị số tham chiếu của
cystatin C có thể khác nhau do những phương pháp phân tích khác nhau. Tốt nhất
mỗi phòng xét nghiệm hoá sinh nên nghiên cứu để xây dựng cho mình một trị số
tham chiếu cho thông số này để các bác sỹ lâm sàng có thể nhận định kết quả được
thuận lợi hơn.  Khi nhận định kết quả phải
chú ý đến một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến trị số cystatin C.

Cystatin C có xu hướng tăng trong: bệnh
viêm gan tiến triển, tràn dịch màng phổi, một số bệnh khớp, một số bệnh ung thư
(nhưng nồng độ cystatin C không tỷ lệ với số lượng và kích thước khối u), chứng
tăng homocystein máu ở những bệnh nhân ghép thận, dùng corticoid liều cao dài
ngày,..

Nồng độ cystatin C có thể giảm khi bệnh
nhân đang dùng thuốc cyclosporin

Tóm lại: một trong những ý nghĩa lâm sàng có giá trị là nồng độ
cystatin C trong máu có khả năng phản ánh mức lọc cầu thận (GFR) mà không cần
phải trải qua bước tính toán như thông số mức lọc cầu thận.

Cystatin C có thể giúp sàng lọc bệnh thận
rộng hơn và sớm hơn trước cả khi trị số creatinin tăng. Có khả năng cảnh báo những
nhóm có nguy cơ cao về bệnh tim mạch, đột qụy và suy giảm chức năng thận ở bệnh
nhân là người cao tuổi.

cystatin1.jpg

TS BS Bùi Tuấn Anh
Khoa Hoá sinh- Bệnh viện Bạch
Mai


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng