Ai dễ mắc bệnh?
Zona thần kinh do virus
Varicella zoster gây ra, virut này cũng gây ra bệnh thủy đậu. Sau khi bị
bệnh
thủy đậu, virut có thể ẩn nhiều năm trong hạch của rễ sau dây thần kinh
tủy
sống, đến khi có điều kiện thuận lợi nó sẽ gây ra bệnh zona.
Những người có nguy cơ
cao mắc bệnh là: bị suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV, ung thư, bệnh nhân
đang điều
trị hóa chất ức chế miễn dịch, người tiếp nhận ghép bộ phận cơ thể, căng
thẳng
tinh thần. Virut gây tổn thương rễ dây thần kinh tủy và vùng da mà dây
thần
kinh này chi phối. Bệnh có thể tái phát nhất là khi dùng các thuốc làm
giảm
tính miễn dịch của cơ thể. Nhờ có sự miễn dịch của cơ thể với sự tấn
công mới
của virut thủy đậu, nên bệnh zona không lây từ người bệnh sang người
lành
đã mắc bệnh thủy đậu. Nếu người chưa có miễn dịch khi tiếp xúc với người
bị
bệnh zona có thể bị bệnh zona hoặc thủy đậu.
Dấu hiệu nhận biết bệnh
zona
Các triệu chứng bệnh
xuất hiện thành từng đợt, lớp này nối tiếp lớp kia.
Dấu hiệu sớm của bệnh là
cảm giác nhạy cảm. Đau hoặc như kim châm nhoi nhói, ngứa, rát bỏng trên
một
vùng da. Cảm giác này chỉ có ở vùng cơ thể chịu ảnh hưởng của dây thần
kinh
chứa virut bị tổn thương. Thông thường chỉ có một dây thần kinh tủy sống
bị
virut tấn công. Bệnh nhân bị nhức đầu, đau mình, sốt nhẹ. Sau vài ba
ngày thì
những mụn rộp xuất hiện trên nền da màu đỏ như phải bỏng. Mụn nước sẽ
lan rộng
tới một vùng da do dây thần kinh bị bệnh chi phối có thể là thắt lưng, ở
cạnh
sườn từ xương sống tới xương ức một bên, bàn chân, bàn tay hoặc một bên
mặt, da
đầu. Điểm đặc biệt là mụn nước thường chỉ ở một phía, ít khi lan qua
đường ranh
giới giữa thân mình. Lúc đầu mụn nước trong, sau đó thành đục có mủ, lõm
ở
giữa. Khi mụn nước xuất hiện thì nóng sốt cũng giảm. Mụn nước khô đi sau
vài
tuần lễ, để lại một lớp vảy. Vảy rụng sau vài tuần lễ. Da sẽ có sẹo tròn
màu
bạc xếp thành từng nhóm. Nhưng cơn đau trên da có thể vẫn tồn tại do di
chứng
sau zona.
… Và những biến chứng
Bệnh nhân phải chịu đau
đớn ở vùng da bị bệnh liên tục nhiều tháng hoặc hằng năm. Khoảng trên
50% bệnh
nhân hơn 70 tuổi bị đau đớn gặm nhấm thể xác và gây stress về tinh thần
dai
dẳng. Zona hủy hoại tế bào thần kinh tủy sống và làm rối loạn chức năng
dẫn
truyền tín hiệu từ ngoài da. Bệnh nhân có thể tả nhiều kiểu đau xảy ra
kế tiếp
hoặc đồng thời. Khi zona gây tổn thương dây thần kinh tam thoa ở mặt,
mụn nước
sẽ mọc ra trên mặt, trong miệng và mắt. Nếu mụn mọc gần mắt, bệnh nhân
cần đi
khám ở khoa mắt ngay vì nếu mắt mà bị nhiễm virut thì thị giác có thể bị
mất.
Nếu tổn thương dây thần kinh số VII sẽ đau tai trong, cảm giác trên mặt
tê
liệt, vị giác giảm, mắt mờ, mỏi. Một biến chứng nguy hiểm là đau dây
thần kinh
sau zona, nhất là ở người cao tuổi. Các cơn đau này có khi kéo dài cả
năm sau
khi vết thương trên da đã lành.
Có cách nào phòng bệnh?
Điều trị zona càng sớm
càng tốt, nhất là trong vòng 72 giờ kể từ khi bệnh xuất hiện. Điều trị
tích cực
có thể thu ngắn thời gian bệnh, ngăn chặn sự tàn phá của virut đối với
dây thần
kinh và giảm thiểu đau. Các thuốc đặc hiệu chống virut thường dùng là
acyclovir, famiclovir, valacyclovir. Có thể dùng thêm các thuốc chống
viêm và
giảm đau như acetaminophen, ibuprofen. Corticosteroid cũng được dùng để
làm vết
thương mau lành và giảm đau. Cần giữ vết thương trên da sạch sẽ, che phủ
mụn
nước với lớp băng vải mỏng để tránh cọ sát với quần áo và phòng bội
nhiễm. Bệnh
nhân bị đau thần kinh sau zona kéo dài nhiều tháng, hay cả năm phải dùng
đến
thuốc chống đau như chất opiod, thuốc chống động kinh gabapentin,
carbamazepin,
thuốc chống trầm cảm elavil. Có thể dùng kem thoa chống đau hoặc
lidocain dán
trên da, aspirin gel, voltarel gel để giảm cơn đau dây thần kinh, nếu da
đã
lành hết mụn rộp. Bệnh zona thần kinh (Shingles) hoàn toàn khác với bệnh
nhiễm
Herpes simplex ở bộ phận sinh dục. Shingles có thể điều trị được với các
loại
thuốc đặc hiệu chống virut đã nêu trên đây. Kháng sinh không có tác dụng
nào
đối với virut vì vậy không nên dùng để điều trị, trừ trường hợp bội
nhiễm bởi
vi khuẩn khác.
Để phòng bệnh, một số
nước đã dùng thuốc chủng ngừa Zostavax cho các đối tượng người trên 60
tuổi.
Tuy nhiên cũng có những người không nên chủng ngừa gồm: người dị ứng với
gelatin, kháng sinh neomycin hoặc bất cứ thành phần nào của thuốc chủng
ngừa;
người bị suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV/AIDS, đang uống thuốc ức chế
miễn
dịch loại steroid, đang trị liệu bằng hóa chất hoặc tia xạ, đang có bệnh
lao;
có thai. Vaccin có tác dụng bảo vệ khoảng 50% người từ 60 tuổi trở lên
và công
hiệu lên tới 64% đối với lứa tuổi 60-69 được chủng ngừa.
ThS. Nguyễn Thế Minh
Suckhoedoisong.vn

