Bệnh Tularemia gây viêm hạch nguy hiểm

Đến nay, bệnh được phát
hiện ở nhiều nước Bắc Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia, châu
Phi,
Liên Xô (cũ), ở Việt Nam đã có nhiều thông báo về các vụ dịch chuột,
dịch sốt
sưng hạch…

Bệnh lây truyền như thế
nào?

Francisella tularensis
là trực khuẩn đường ruột, ở nhiệt độ 40oC, vi khuẩn sống trong nước và
đất ẩm
trên 4 tháng; 10oC trên 9 tháng; trong sữa, vi khuẩn sống trên 3 tháng; ở
xác
động vật chết, vi khuẩn sống được 6 tháng… Nhưng vi khuẩn dễ bị  diệt
bởi  các chất thức khử khuẩn như lyzol, cloramin, crezol…

Các loài động vật
chuột, thỏ, chó, bò, cừu, chim… mang mầm bệnh và thải vi khuẩn ra
nước, đất
tạo ra ổ bệnh thiên nhiên. Bệnh lây truyền giữa các động vật với nhau là
do ve
vỏ cứng và các loại sâu bọ hút máu gây ra. Người mắc bệnh do tiếp xúc
trực tiếp
ô nhiễm vi khuẩn qua đường da, kể cả da không sây sát, niêm mạc (mắt, hô
hấp,
tiêu hoá), qua thức ăn, nước uống; qua vết đốt của côn trùng; qua vết
cắn của
động vật bị bệnh như mèo, chó, lợn… không thấy lây trực tiếp từ người
bệnh
sang người lành hoặc qua đồ vật. Sau khi mắc bệnh, bệnh nhân có  miễn
dịch
lâu bền.

ec8.jpg
Các yếu tố trong dây chuyền lây nhiễm bệnh
Tularemia.

Các thể bệnh thường gặp

Bao gồm nhiều thể: thể
hạch, hạch loét, hạch mắt, hạch họng, thể bụng hay thể ruột, thể phổi
(viêm phế
quản, viêm phổi), thể lan tràn hay thể nhiễm khuẩn huyết tiên phát. Tùy
thể mà
có biểu hiện lâm sàng khác nhau:

  • Thể hạch, do nhiễm
    khuẩn qua da. Xuất hiện viêm hạch tại nơi vi khuẩn xâm nhập. Vào ngày
    thứ 2 –
    3, hạch sẽ sưng và rất đau, hạch to lên nhanh, từ nhỏ bằng ngón tay cho
    tới to
    bằng quả trứng. Nhiều trường hợp sau 1 – 4 tháng, hạch trở về bình
    thường.
    Nhưng cũng có khi sau 3 – 4 tháng, hạch sẽ hoá mủ, mềm ra và cuối cùng
    vỡ mủ. Mủ
    tương đối đặc, màu trắng sữa, không có mùi, xét nghiệm mủ có thể thấy vi
    khuẩn.
    Hạch vỡ liền sẹo rất chậm và để lại sẹo cứng, đôi khi để lại cục xơ. Có
    thể có
    một hạch hoặc nhiều hạch, thường thấy nhất là nách, bẹn, đùi. Nếu nhiễm
    bệnh
    qua đường ăn uống thì thấy hạch cổ và dưới hàm. Trường hợp nhiễm khuẩn
    huyết
    thì xuất hiện hạch ở nhiều nơi, nhưng hạch này thường không to, ít đau
    và không
    thành mủ. Cùng với hạch sưng, bệnh nhân có sốt cao, tình trạng nhiễm độc
    toàn
    thân rõ.
  • Thể hạch loét phát
    sinh khi vi khuẩn qua nơi da sây sát, qua vết đốt của ve, muỗi, ruồi
    trâu…
    Tại vết đốt, sau 1 – 2 ngày tạo thành nốt dát, rồi phỏng nước, mụn mủ và
    tạo
    thành nốt loét giống như miệng núi lửa, ít đau, bờ vết loét gồ cao lên
    và cứng,
    mặt vết loét phủ một màng sẫm màu, xung quanh trắng. Có thể viêm hạch
    quanh vết
    loét.
  • Thể hạch mắt xuất hiện
    khi vi khuẩn qua niêm mạc mắt, gây viêm kết mạc nặng,  gây nốt phỏng và
    loét niêm mạc, từ đó thoát ra dịch, mủ màu vàng đặc. Nốt loét rộng
    khoảng
    0,25cm. Các hạch dưới hàm, hạch mang tai, hạch cổ sưng to và đau. Tình
    trạng
    toàn thân nặng, nếu tổn thương cả 2 mắt thì thường nặng và tử vong vào
    ngày thứ
    6 – 8 của bệnh.
  • Thể hạch họng, do vi
    khuẩn xâm nhập qua đường miệng, bệnh nhân thấy đau họng, khó nuốt, họng
    đỏ,
    hạch amydal sưng to, phù nề, trên mặt có phủ màng trắng đục, hoại tử,
    màng này
    khó bóc ra giống như màng giả của bệnh bạch hầu, nhưng có điểm khác là
    không
    phát triển quá giới hạn của amydal, hay gặp tổn thương một bên. Nếu bệnh
    nhân
    có sưng cả hạch dưới hàm, hạch cổ, hạch mang tai, hạch thường hoá mủ và
    tiến
    triển kéo dài.
  • Thể hạch bụng, do vi
    khuẩn xâm nhập vào cùng thức ăn, gây sưng các hạch mạc treo, kích thích
    màng
    bụng gây các cơn đau bụng nặng, buồn nôn và nôn nhiều, chán ăn.
  • Thể phổi tiên phát, do
    vi khuẩn xâm nhập qua đường hô hấp, gây viêm phổi, viêm phế quản. Viêm
    phế
    quản, bệnh nhân có triệu chứng giống cúm như đau ngực, ho khan… Trường
    hợp
    viêm phổi: thường diễn biến kéo dài trên 2 tháng, khám phổi thấy ran
    khô, nhiều
    ran ẩm nhỏ hạt. Bệnh dễ biến chứng giãn phế quản, áp-xe phổi, viêm màng
    phổi,
    hoại thư phổi và tạo nên các hang.
  • Thể viêm phổi thứ
    phát, là biến chứng của bất kỳ thể nào, khi vi khuẩn theo đường máu tới
    phổi
    hoặc theo đường bạch huyết tới các hạch khí phế quản và từ đó vào nhu mô
    phổi
    dẫn tới viêm phổi ổ nhỏ hoặc là viêm phế quản.
  • Thể nhiễm khuẩn huyết,
    gặp ở bệnh nhân có thể  lực yếu. Thường không thấy tổn thương tại chỗ.
    Bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng sốt 39 – 40oC, đau đầu, mệt
    mỏi,
    đau cơ, gan, lách to ngay từ ngày đầu của bệnh. Tiếng tim mờ, huyết áp
    giảm,
    mạch yếu, tốc độ máu lắng tăng. Bạch cầu tăng. Sốt kéo dài khoảng 3
    tuần. Đa số
    bệnh nhân xuất hiện hồng ban dầy và đối xứng ở tay, chân, kiểu “bít
    tất” ở chân và tay, mặt, cổ, ngực, ban hết sau 8 – 12 ngày. Thể này hay
    biến chứng viêm phổi, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim…

Bệnh cần chẩn đoán phân
biệt với các bệnh: dịch hạch, bệnh than,  lao hạch, cúm, thương hàn, nhờ
xét nghiệm vi khuẩn và các triệu chứng đặc hiệu của mỗi bệnh.

Chữa trị và phòng bệnh

Các thuốc kháng sinh có
hiệu quả tốt chữa bệnh là: streptomycin, gentamycin, cephalosporin thế
hệ 3,
rifampycin. Điều trị triệu chứng truyền dịch, giải độc. Hạch vỡ thì rửa
sạch và
thay băng. Nhỏ mắt bằng dung dịch kháng sinh, nếu nặng có thể dùng
hydrocortison.

Phòng bệnh bằng các
phương pháp: tiêm vaccin, vệ sinh môi trường, diệt chuột, diệt ve và các
loại
côn trùng hút máu khác, bảo vệ nguồn nước, đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm.

ThS. Trần Minh Thanh
Suckhoedoisong.vn


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng