Bệnh rubeon có đáng sợ?

Bệnh có thể lây truyền từ 1 tuần
trước khi phát ban tới 15 ngày sau đó. Tuy triệu chứng viêm khớp nổi
trội hơn
trong rubeon, nhưng các dấu hiệu của bệnh rất khó phân biệt với các bệnh
do
virut khác như tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, nhiễm echo virus,
nhiễm
virus coxsackie. Chẩn đoán xác định dựa vào phân lập được virut hoặc
phản ứng huyết
thanh học.

Bệnh lây nhiễm qua đường hô hấp,
có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Sau khi nhiễm virut, thời kỳ ủ bệnh từ 14 –
21 ngày
(trung bình là 16 ngày). Sốt, mệt mỏi thường nhẹ, xuất hiện cùng với
sưng viêm hạch
dưới vùng chẩm, có thể xuất hiện trước phát ban khoảng 1 tuần, có thể có
sổ
mũi. Ở người lớn, triệu chứng viêm đa khớp xảy ra trong 25% bệnh nhân,
đặc biệt
ở nữ giới trẻ tuổi. Những triệu chứng bệnh thường diễn ra từ 7 ngày đến
vài
tuần. Hạch to ở sau cổ và sau tai là rất hay gặp, xuất hiện 5 – 10 ngày
trước
khi phát ban. Phát ban dạng dát sẩn mịn kéo dài 3 ngày, mọc từ mặt xuống
thân
mình, cuối cùng là chân tay. Hồng ban ở họng và vòm miệng, đôi khi có
những ban
dạng dát sẩn màu hồng, mịn xuất hiện ở mặt, thân mình và chân tay, diễn
tiến
nhanh trong 2 – 3 ngày rồi mờ đi nhanh, thường tồn tại 1 ngày tại mỗi
vùng.
Rubeon không phát ban cũng thường hay gặp như có phát ban. Trong vùng có
dịch,
một bệnh nhân có các triệu chứng nêu trên có thể nghi ngờ bị bệnh, nhưng
việc
chẩn đoán cần dựa vào xét nghiệm.

Các dấu hiệu xét nghiệm gồm:
giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, trong đó giảm bạch cầu xuất hiện sớm và
sau đó có
tăng tương bào. Có thể phân lập được virut bằng xét nghiệm ức chế ngưng
kết
hồng cầu và phản ứng kháng thể huỳnh quang và xét nghiệm huyết thanh
miễn dịch
của bệnh rubeon. Chẩn đoán xác định dựa vào nồng độ kháng thể tăng gấp 4
lần so
với bình thường.

Bệnh sởi thường gặp ở trẻ từ 1
tuổi trở lên. Bệnh khởi phát trong 2 – 3 ngày với các triệu chứng: sốt
đột ngột
trên 38oC trở lên, mắt ướt, ho, chảy nước mũi, tiêu chảy… Khi bệnh
toàn phát
sốt cao 38,5 – 39oC, li bì, mệt mỏi, các ban sởi mọc dày, mịn, xuất hiện
đầu
tiên ở sau tai, lan ra mặt, cổ xuống thân mình, tứ chi trong 1 – 2 ngày.
Bệnh
sẽ lui khi hết sốt, ban bay dần theo trình tự mọc và để lại vết thâm
trên da.

Điều trị và tiên lượng

Điều trị bệnh chủ yếu vẫn là cho
bệnh nhân nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và dùng các thuốc nâng cao thể trạng, đặc
biệt
là vitamin để tăng khả năng đề kháng của của cơ thể.

Bệnh rubeon cần điều trị triệu
chứng. Acetaminophen có tác dụng làm giảm triệu chứng. Viêm não và giảm
tiểu cầu
không đe  dọa tới tính mạng thì chỉ cần điều trị triệu chứng. Điều trị
trực tiếp các dị tật. 

Rubeon là một bệnh nhẹ và hiếm
khi kéo dài trên 3 – 4 ngày. Trái lại, bệnh rubeon bẩm sinh có tỷ lệ tử
vong cao
và những di chứng bẩm sinh tồn tại vĩnh viễn.

Phòng bệnh

Gây miễn dịch chủ động bằng cách
dùng vaccin rubeon sống giảm độc lực cho tất cả trẻ em và những em gái
nhạy cảm
trước tuổi có kinh nguyệt. Hiện nay thường tiêm vaccin loại kết hợp
phòng cả 3
bệnh Rubella, sởi và quai bị, sử dụng cho trẻ em trên 12 tháng tuổi và
người
lớn. Cần khuyến cáo những phụ nữ trong độ tuổi mang thai, hoặc dự định
mang
thai trong thời gian này nên đi tiêm ngừa bệnh. Sản phẩm tạo miễn dịch
trong
thời gian rất dài và tác dụng bảo vệ vẫn còn nếu người phụ nữ tiêm ngừa
mang
thai nhiều năm sau đó. Ngoài ra, có thể phòng bệnh bằng các biện pháp
như mặc
đủ ấm, ăn uống đảm bảo dinh dưỡng, cách ly và thực hiện các biện pháp
phòng lây
lan vì bệnh truyền nhiễm rất nhanh qua đường hô hấp.

Biến chứng do bị rubeon

Phơi nhiễm
khi có thai: việc xác định liệu kháng thể rubeon xuất hiện ở lúc đầu
thời kỳ
mang thai hay không là rất quan trọng vì nhiễm virut trong 3 tháng đầu
mang
thai dẫn tới rubeon bẩm sinh tối thiểu là 80% của thai nhi. Nếu phụ nữ
mang
thai tiếp xúc với người bệnh có thể bị bệnh rubeon, xác định bệnh phải
xét
nghiệm kháng thể rubeon bằng phản ứng trung gian ức chế ngưng kết hồng
cầu.
Nếu không tìm được kháng thể thì phải tiếp tục theo dõi lâm sàng và
huyết
thanh. Vấn đề đặt ra ở người có thai khi xác định nhiễm rubeon là có
nên phá
thai hay không. Việc này cần phải được cân nhắc căn cứ các yếu tố: gia
đình, tôn
giáo, tính hợp pháp… Nguy cơ đối với thai nhi cao nhất là khi mẹ bị
nhiễm
bệnh trong 3 tháng đầu mang thai.

Rubeon bẩm
sinh: trẻ bị nhiễm rubeon trong thời kỳ bào thai khi sinh có thể vẫn
bình
thường nhưng dễ có những biểu hiện như đục thủy tinh thể sớm, glocom,
mắt
nhỏ, giảm thính lực, chậm phát triển tâm thần vận động, bệnh tim bẩm
sinh, to
cơ quan và phát ban dạng dát sẩn. Những trẻ mắc rubeon bẩm sinh dễ gặp
các
biến chứng nặng như bại não, tổn thương phổi, mù mắt… Chẩn đoán được
xác
định bằng phân lập virut. Một xét nghiệm đặc hiệu đối với  kháng thể
IgM
thường được dùng cho chẩn đoán ở trẻ sơ sinh. 

Bệnh não
sau nhiễm virut: số ít trường hợp xảy ra bệnh não sau nhiễm virut từ 1
– 6
ngày sau khi phát ban nhưng không phải luôn luôn phân lập được virut.
Tỷ lệ
tử vong là 20% nhưng rất hiếm gặp di chứng trong số những bệnh nhân
lành bệnh.

BS. Trần Thanh Tâm
suckhoedoisong.vn


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng