Vì vậy trong cấp
cứu chấn thương luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã có. Chúng tôi thường
sử dụng nguyên tắc của JATEC trong cấp cứu chấn thương.
- Điều trị những tổn thương đe doạ mạng sống nhất
- Việc chẩn đoán xác định ít quan trọng hơn
- Nhìn nhận vấn đề từ góc độ sinh lý học cơ thể
- Thời gian là yếu tố quan trọng nhất
- Không gây hại thêm cho bệnh nhân.
Nguyên tắc chung trong cấp cứu gãy xương:
- Tuân thủ các nguyên tắc chung trong cấp cứu bệnh
nhân chấn thương theo các bước ưu tiên ABCDE: Khí đạo (Airway),
Hô hấp (Breathing), Tuần hoàn (Circulation), Mất chức năng hệ TKTƯ
(Dysfuntion of CNS), Bộc lộ cơ thể-Môi trường (Exposure, Environment). - Nếu không có đa chấn thương thì ưu tiên cấp cứu
gãy xương chi theo nguyên tắc 3B: Hô hấp (Breathing), Chảy máu (Bleeding),
Xương (Bone).
Chảy máu (Bleeding):
Chảy máu ra ngoài rất dễ nhận thấy và thường được
xử trí ngay. Tuy nhiên trong cấp cứu gãy xương chi nhiều khi không đánh giá đúng
tình trạng chảy máu dẫn đến những hành động không cần thiết hoặc quá mức ví dụ
như đặt garô cho các vết thương vùng bàn tay…
Chảy máu có 3 loại:
- Máu đùn từ vết thương lên, không chảy thành
dòng, không theo nhịp đập của tim, màu đỏ, đó là máu chảy từ các mao mạch. - Máu chảy thành dòng, không theo nhịp đập của
tim, dòng máu thẫm màu, đó là máu chảy từ các tĩnh mạch. Hai kiểu chảy máu này chỉ cần băng ép đúng
qui cách ngay trên vết thương là có thể cầm máu được. - Máu chảy thành dòng, phun trào theo nhịp đập
của tim, dòng máu đỏ tươi, đó là máu chảy từ động mạch.
Để cầm máu cần xác định đúng đường đi của động
mạch và băng ép ngay trên đường đi động mạch.

Garô chỉ là biện pháp cuối cùng khi các biện
pháp khác đã thất bại.
Xương (Bone):
Phân loại và triệu chứng gãy xương:
- Trong cấp cứu thường phân loại gãy xương kín
và gãy xương hở. Gãy xương hở là ổ gãy thông với môi trường bên ngoài, tăng
nguy cơ nhiễm khuẩn, để lại nhiều di chứng nếu không được sơ cứu và xử trí tốt. - Gãy xương nhỏ thường ít ảnh hưởng đến tình trạng
chung của bệnh nhân, gãy xương lớn có thể gây sốc chấn thương. Triệu chứng gãy
xương nhỏ cũng ít rõ rệt như triệu chứng gãy xương lớn. - Triệu chứng gãy xương rõ:
- Biến dạng trục chi.
- Cử động bất thường.
- Lạo xạo xương.
- Sờ thấy đầu xương gãy chồi ngay dưới da.
- Gãy xương hở: chảy dịch tuỷ xương, lộ xương.
4. Triệu chứng nghi ngờ gãy xương:
- Giảm, mất vận động chi.
- Đau chói khi ấn tại chỗ, giảm đau khi được bất
động. - Sưng
nề, bầm tím.
Sau
khi đã xác định được chi gãy cần bất động ngay để ngăn ngừa tổn thương thêm phần
mềm do đầu xương sắc gây ra, làm giảm đau và ngăn ngừa sốc, giảm nguy cơ gãy hở
do đầu xương có thể chọc thủng da.
Vật
liệu dùng trong bất động chi gãy:
1. Nẹp:
- Các
loại nẹp đã được chuẩn bị sẵn cho cấp cứu: nẹp gỗ các cỡ, nẹp Cramer, nẹp máng
Beckel, nẹp hơi, nẹp plastic… - Nẹp
tuỳ ứng: bất kỳ vật liệu gì sẵn có, không gây nguy hiểm thêm cho bệnh nhân. - Nẹp
cơ thể: có thể lấy chi lành, cơ thể bệnh nhân, làm chỗ bất động tạm thời khi
không có bất kỳ loại nẹp nào khác.

2. Độn: thường dùng bông không
thấm nước. Nếu không có, có thể dùng bông khác, vải, quần
áo. Đệm lót độn vào đầu nẹp hoặc nơi ụ xương cọ xát vào nẹp.
3. Băng: dùng để có định nẹp,
hay dùng băng cuộn. Nếu không có, có thể dùng các dải dây, dải vải xé từ quần
áo…Băng tam giác hoặc các dạng tương tự có thể dùng để bất động chi gãy vào nẹp
cơ thể.
4. Đai treo:
dùng cho chi trên, treo qua cổ, qua vai nhằm mục đích bất động tăng cường, tạo điều
kiện thuận lợi hơn khi vận chuyển bệnh nhân.
Nguyên tắc bất động chi gãy:
- Nhận định tìnhnh trạng nạn nhân
- Xác định ổ gãy
- Chuẩn bị bú nẹp, phải đảm bảo là nạn nhân đó được
nới lỏng quần áo, lấy đồ trang sức - Theo dõi tuần hoàn ngoại vi trước khi nẹp
- Đệm lút nẹp
- Đặt nẹp: – Không nắn lại xương, không ấn xương chồi
– Nâng đỡ nhẹ nhàng, không nắm, không băng vào ổ
gãy - Kiểm tra độ chặt lỏng
- Đặt
băng treo, đai nẹp nếu cần - Nâng
cao chi thể - Theo
dõi tuần hoàn sau nẹp - Sau
nẹp có thể buộc hai chi dưới với nhau, buộc chi trên vào cơ thể cho thuận tiện
cho việc vận chuyển bệnh nhân - Bất động nẹp trong tư thế gãy ngoại trừ:
- Chi biến dạng nặng nề không thể nẹp, khó khăn
cho vận chuyển - Đầu xương gãy có nguy cơ chọc thủng da
- Rối loạn tuần hoàn
Nếu vậy – Hãy kéo chi theo trục hoặc chỉnh lại
trục xoay hay chỉ cần chỉnh lại cho thẳng tương đối để có thể bất động tốt hơn.
Trong
trường hợp gãy xương hở cần tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc vô khuẩn trong
sơ cứu:
- Rửa
vết thương bằng nước muối sinh lý. - Chỉ
sát khuẩn xung quanh vết thương, không đổ thuốc sát khuẩn hay kháng sinh vào vết
thương. - Không
thăm dò vết thương, không nắn đẩy đầu xương chồi. - Băng
vô khuẩn 4 lớp: một lớp gạc tẩm ướt bằng nước muối sinh lý đặt trực tiếp lên vết
thương, sau đó là lớp bông thấm nước, tiếp đó là một lớp bông dày không thấm nước,
ngoài cùng là 1 lớp băng ép. - Bất
động trong tư thế gãy. - Tiêm
phòng SAT, kháng sinh toàn thân, hồi sức.
Ths. Đào Xuân Thành
Khoa Ngoại Bệnh viện Bạch Mai
Bộ môn Ngoại trường đại học Y Hà nội

