Biểu hiện lâm sàng
Biểu
hiện ngộ độc chì được chia làm hai nhóm, ngộ độc cấp tính và ngộ độc mạn
tính.
Chẩn đoán ngộ độc chì cần căn cứ vào các yếu tố như tiếp xúc với chì,
biểu hiện
lâm sàng, chẩn đoán loại trừ và xét nghiệm.
Ngộ độc chì cấp tính ít gặp, thường là cơn đợt cấp
của ngộ
độc chì mạn tính, xuất hiện khi bệnh nhân uống phải một lượng chì lớn do
tai
nạn. Biểu hiện sau 2 – 48 giờ, thường là các dấu hiệu và triệu chứng do
tổn
thương gây độc tế bào đối với nhiều cơ quan, đặc biệt là về hệ tiêu hóa:
chán
ăn, đau bụng, buồn nôn, nôn, táo bón. Nếu ngộ độc nặng có các biểu hiện
của suy
gan, suy thận: mệt mỏi, vàng da, đái ít, thậm chí vô niệu, xét nghiệm
thấy men
gan, bilirubin, ure, creatinin máu tăng dần. Ngoài ra có thể gặp các dấu
hiệu
khác về thần kinh trung ương như đau đầu, kích động, ảo giác nhưng
thường ít
gặp hơn. Định lượng thấy nồng độ chì trong máu tăng, giá trị bình thường
ở trẻ
em là dưới 15 mg/dL, nam giới dưới 20 mg/dL, nữ giới dưới 15 mg/dL, ở
người có nghề
nghiệp thường xuyên tiếp xúc với chì có thể coi giá trị bình thường là
dưới 40 mg/dL.
Ngộ độc chì mạn tính cũng biểu hiện các dấu hiệu và
triệu
chứng ở nhiều hệ cơ quan. Về tiêu hóa, hay gặp là đau bụng và táo bón,
trong
trường hợp điển hình xuất hiện cơn đau bụng chì, đau bụng dữ dội, tiến
triển
bởi những cơn kịch phát kèm theo nôn (có thể nhầm với bụng ngoại khoa),
bệnh
nhân không có sốt, không có phản ứng thành bụng, không có tụt huyết áp,
X-quang
ổ bụng không có dấu hiệu ngoại khoa. Khám miệng thấy đường chì Burton ở
lợi và các vết Gubler ở niêm mạc
miệng phần trong má (có màu xanh tím) là do sulphua chì được tiết qua
nước bọt.
Người lớn phơi nhiễm mạn tính với chì thường có mức chì máu từ 25-60 mg/dL.
Các biểu hiện về thần kinh, khi nồng độ chì máu
còn thấp trên khám lâm sàng khó phát hiện được các biểu hiện về thần
kinh. Khi
nồng độ chì trong máu trên 40 mg/dL bắt đầu xuất hiện các biểu hiện
thương tổn thần kinh trung ương, đầu tiên là rối loạn các hoạt động cao
cấp như
giảm trí nhớ, kém tập trung, khó ngủ, kích thích, lo âu, suy nhược. Khi
chì máu
cao trên 70 mg/dL
sẽ có biểu hiện sảng, co giật và hôn mê do tổn thương mô não, phù não…
Các
biểu hiện khác hay gặp là liệt-giả thần kinh quay (các ngón tay và bàn
tay
không duỗi được), thường là tổn thương vận động, ít gặp tổn thương cảm
giác,
giảm tốc độ dẫn truyền các dây thần kinh trụ, giữa và quay; đôi khi gặp
bệnh
cảnh giống như xơ cột bên teo cơ.
Biểu hiện về huyết học thường là thiếu máu mức độ
vừa, đẳng
sắc, sắt huyết thanh tăng nhẹ. Xuất hiện hồng cầu hạt kiềm trong máu,
nhưng
không có sự song hành giữa số lượng hồng cầu hạt kiềm và mức độ nặng của
ngộ
độc.
Tổn thương thận cũng là biểu hiện của ngộ độc chì,
giai đoạn
sớm tổn thương ống lượn gần, khỏi khi ngừng tiếp xúc với độc chất, giai
đoạn
muộn suy thận tùy mức độ do tổn thương cầu thận và ống kẽ thận không đặc
hiệu.
Các biểu hiện khác cũng thường gặp như cơn tăng
huyết áp,
thường đi kèm với cơn đau bụng chì hoặc ở giai đoạn muộn. Các dấu hiệu
khác
hiếm gặp hơn như: viêm tuyến mang tai, viêm tụy, goutte… khi tiếp xúc
lâu dài
có thể gây nên rối loạn chức năng tuyến giáp, tổn thương tinh hoàn…
Với
ngộ độc chì ở trẻ em, thường có biểu hiện tổn thương não như viêm não do
chì
(vô cảm, rối loạn ý thức, có thể có co giật), đôi khi có biểu hiện của
bệnh
cảnh tăng áp lực nội sọ, tiên lượng tốt nếu được điều trị bằng chất gắp.
Nguyên nhân và yếu tố
nguy cơ
Ngộ
độc chì ở người lớn thường chủ yếu do nghề nghiệp, ở trẻ em chủ yếu do ô
nhiễm (thức
ăn, nước uống, môi trường, tai nạn do tiếp xúc với đồ vật có hàm lượng
chì
cao).
Ngộ
độc chì cấp thường do hấp thu chì qua đường tiêu hóa, ở nước ta rất hay
gặp do uống
các thuốc nam, đặc biệt là các loại thuốc tễ không rõ nguồn gốc như Mẫu
đơn,
Chu sa, Thần sa (trong thành phần có kim loại nặng hàm lượng cao)… Ngộ
độc
chì mạn chủ yếu do tiếp xúc với các yếu tố môi trường (không khí, nước,
thực
phẩm) và nghề nghiệp. Cần nhấn mạnh các nghề có nguy cơ cao bị nhiễm độc
chì
mạn tính như: nấu chì, sản xuất acqui chì, ngành in, ngành sản xuất
nhựa, kinh
doanh xăng dầu, hàn chì, đốt rác thải rắn, sản xuất thủy tinh, sản xuất
sơn…
Xử trí và phòng ngừa
Với ngộ độc chì cấp, cần rửa dạ dày sớm với dung
dịch
natrisulfat hoặc magie sulfat 3%, không
dùng than hoạt vì chì lắng đọng dưới dạng không hấp thu được; cân nhắc
chỉ định
ngoại khoa hoặc các biện pháp nội soi gắp chì trong đường tiêu hóa. Về
điều trị
hỗ trợ, trong trường hợp có tổn thương thần kinh như phù não cần chú ý
các biện
pháp làm giảm áp lực nội sọ bằng cách dùng manitol, tăng thông khí, cân
nhắc sử
dụng dexamethason; duy trì lượng nước tiểu 1-2 mL/kg/giờ; truyền máu nếu
cần;
điều trị co giật. Điều trị triệu chứng như đau khớp do goutte dùng
colchicine,
chống viêm không steroid…
Về
điều trị bằng chất gắp chì, khi có biểu hiện bệnh lý não dùng CaNa2-EDTA:
30
mg/kg/24 giờ (trẻ em 1500/m2/24 giờ) pha 2-4 mg/mL trong dung
dịch sinh lý truyền tĩnh mạch, tối đa 5 ngày; có thể dùng liều đơn
dimercaprol
(BAL) 3-5 mg/kg tĩnh mạch, sau đó 4 giờ chỉ định phối hợp CaNa2EDTA
và BAL. Ngộ độc chì không có bệnh lý não dùng succimer 10 mg/kg uống 3
lần một
ngày trong 5 ngày, sau đó 10 mg/kg 2 lần một ngày trong 14 ngày, cân
nhắc cho
thêm liệu trình nếu cần thiết hoặc dùng CaNa2-EDTA 20-30 mg/kg/24
giờ (trẻ em 1000-1500 mg/m2/24 giờ) truyền tĩnh mạch, lưu ý là
succimer thường được ưu tiên dùng ở bệnh nhân không có triệu chứng tiêu
hóa.
Với
trẻ em có nồng độ chì trong máu cao nhưng không có triệu chứng, trung
tâm phòng
ngừa và kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo ưu tiên chỉ dùng
chất gắp
chì đường tĩnh mạch khi nồng độ chì máu trên 45 mg/dL. Tuy vậy vì qua
khảo sát
người ta cũng thấy khi chì máu trên 25 mg/dL là có thể ảnh hưởng đến sự
phát
triển tinh thần và trí tuệ của trẻ em, làm sụt giảm chỉ số IQ vì vậy có
thể dùng succimer 10 mg/kg uống 3 lần một ngày trong 5 ngày, sau đó 10
mg/kg 2 lần một ngày trong 14 ngày, có thể cho thêm liệu trình nếu cần
thiết. Trong trường hợp người lớn không có triệu chứng cân nhắc dùng
succimer
khi chì máu trên 80 – 100 mg/dL.
Với ngộ độc chì mạn tính, trước hết cần tìm nguồn
tiếp xúc để loại bỏ nguồn gốc và nguy cơ. Bệnh nhân cần được làm xét
nghiệm
trước khi dùng chất gắp: nồng độ chì trong máu, protoporphyrin, điện
giải đồ
máu, công thức máu, chức năng gan-thận, định lượng acid delta
aminolevulinic
nước tiểu, làm test gây tăng chì niệu. Điều trị bằng chất gắp nếu nghiệm
pháp
gây tăng chì niệu dương tính và chức năng thận bình thường. Sau 3 – 4
tuần cần
làm lại nghiệm pháp gây tăng chì niệu để quyết định đợt điều trị tiếp
theo hay
không.
Phòng ngừa ngộ độc chì cần tuân thủ các qui định về
chì, tránh
các yếu tố nguy cơ cao gây ngộ độc chì, đặc biệt là người có nghề tiếp
xúc
nhiều với chì, cần được trang bị bảo hộ lao động, cải thiện không khí
trong môi
trường làm việc. Làm giảm hàm lượng chì trong các sản phẩm công nghiệp,
kiểm
tra và bảo vệ môi trường, xét nghiệm sàng lọc tất cả các bệnh nhân có
nguy cơ
cao. Đặc biệt, khi bị bệnh cần đến các cơ sở y tế tin cậy để khám và
điều trị,
hết sức tránh dùng các loại thuốc y học dân tộc có nguồn gốc không rõ
ràng. Nếu
có dấu hiệu và triệu chứng nghi ngờ cần tới trung tâm chống độc để được
chẩn
đoán và xử trí kịp thời.

Hình
ảnh – Một mẫu thuốc Nam
(Hồng đơn) không rõ nguồn gốc (được xác định trong thành phần có hàm
lượng chì
cao)
ThS. Lê Quang Thuận
Trung tâm chống độc bvbm

