Đái tháo đường – Kẻ giết người thầm lặng

Bệnh
Đái tháo đường – kẻ giết người thầm lặng

Bệnh nhân ĐTĐ
do tình
trạng tăng glucose máu mạn tính, tiến
triển sẽ gây tổn thương nhiều cơ quan trong cơ thể như tim, mạch máu, mắt,
thận và thần kinh, hệ miện dịch…chính vì vậy ĐTĐ được coi như là
kẻ giết người thầm nặng. Bệnh ĐTĐ có nhiều biến chứng có thể xuất
hiện cấp tính như hôn mê do
tăng
đường máu, hoặc hạ đường huyết do điều trị sai dẫn đến tử vong nếu không được
chẩn đoán và điều trị kịp thời, hoặc các biến chứng mạn tính nguy hiểm như tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, tai
biến mạch não, tắc động mạch chi gấp 2 – 4 lần; bệnh
lý võng mạc là nguyên nhân
thường gặp gây mù lòa;
suy thận – ĐTĐ là nguyên
nhân hàng đầu gây suy thận ở bệnh nhân suy thận được lọc máu; biến chứng thần
kinh, bệnh lý bàn chân – là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới phải cắt cụt chi không
do chân thương; liệt dương; các biến chứng nhiễm trùng như lao,
nhiễm khuẩn huyết,…Như vậy bệnh ĐTĐ làm ảnh hưởng tới sức khỏe, chất lượng
cuộc sống hoặc gây tàn phế, giảm tuổi thọ thậm trí dẫn tới tử vong đối với
người bệnh. Ước
tính trên thế giới có 4.6 triệu BN tử vong do ĐTĐ (2011). Bệnh nhân ĐTĐ có nguy
cơ tử vong cao trên 2 lần so với người không bị ĐTĐ. Theo dự báo của Tổ chức Y
tế thế giới (WHO) ĐTĐ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 7

Không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới người bệnh mà xét về mặt kinh
tế – xã hội thì tác hại của bệnh đái tháo đường không kém gì thiệt
hại do các tai họa thiên nhiên lớn như sóng thần, siêu bão. Hầu hết
các quốc gia phải dành một phần ngân sách đáng kể để phòng và điều trị bệnh
đái tháo đường. Hiện phần lớn chi phí này dành cho việc điều trị các biến
chứng của bệnh, như thế giới đang phải chi phí cho căn bệnh này 471 tỉ
USD/năm. Chiếm 11% tổng chi phí chăm sóc sức khỏe ở người  lớn

10
tuổi cũng mắc đái tháo đường

Theo nghiên
cứu tiến hành tại Nhật 80% ĐTĐ mới mắc là ĐTĐ typ2, chủ yếu ở nhóm trẻ 13-
15tuổi từ 0.2/100.000 ở năm 1976 tăng tới 7.3 / 100,000  ở năm 1995. Tại Đài Loan tỷ lệ ĐTĐ ở trẻ là 6.5 /100.000

Việt Nam
cũng giống như xu hướng chung trên
thế giới, tình trạng đái tháo đường đang gia tăng rất nhanh. Bên cạnh đó, lứa
tuổi mắc đái tháo đường ngày càng trẻ hóa. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu toàn diện về tỷ
lệ ĐTĐ ở trẻ em và thiếu niên. Trong những năm gần đây, Khoa nội tiết Đái tháo
đường, Bệnh viện Bạch Mai đã tiếp nhận phát hiện chẩn đoán cho một số cháu  từ 10 -15
tuổi bị ĐTĐ typ2

Theo các
chuyên gia y tế sự gia tăng tỷ lệ mắc ĐTĐ ở trẻ này là
do phản ánh sự thay đổi thói quen ăn uống  thức ăn nhanh ( fast food) giầu năng lượng, giầu chất béo, ít chất xơ, các loại nước ngọt có đường.. lối sống tĩnh tại
ít vận động ( xem phim, chơi điện tử, đi xe máy o to thay vì đi bộ hoặc đạp xe đạp, đi
thang máy thay vì đi thang bộ..) và
sự gia tăng tỷ lệ béo phì ở người trẻ, tăng stress trong cuộc sống.

Kiến bu vào nước tiểu là dấu hiệu gì?

Nhiều người cho rằng khi đi tiểu, nước tiểu có
kiến bu vào thì là dấu hiệu của bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ) điều này không hoàn
toàn đúng. 

Thứ nhất kiến bu vào nước tiểu không có nghĩa là
nước tiểu có đường, ở một số người bị nhiễm khuẩn tiết niệu sinh dục, hoặc các
chất tiết đường sinh dục làm nước tiểu có các bạch cầu, hồng cầu, chất đạm kích
thích kiến tập trung.
Thứ hai là ngay cả khi nước tiểu có glucose
không có nghĩa là mắc đái tháo đường vì ở người bình thường chỉ khi glucose máu cao trên
200mg/dl (11.1 mmol/l) thì nước tiểu mới có đường niệu, tuy nhiên ở một số
người bị rối loạn chức năng ống thận như bệnh toan hóa ống thận, có thai, trẻ
đẻ non khả năng tái hấp thu glucose của thận bị rối loạn nên có glucose trong
nước tiểu ngay cả khi glucose máu bình thường (không bị ĐTĐ). 
Hiện nay các thầy thuốc không dựa vào triệu chứng
đường niệu để chẩn đoán ĐTĐ, tuy nhiên nếu có hiện tượng khi đi tiểu, nước tiểu
có kiến bu thì cần phải đến khám tại các cơ sở y tế để được tư vấn và làm xét
nghiệm chẩn đoán ĐTĐ kịp thời.
–  Người
< 45
tuổi thừa
cân

 ( chỉ số khối cơ thể BMI > 23 ) kèm
theo có 1 trong các yếu tố nguy cơ sau:
+ THA: Huyết áp tâm thu ≥ 140 và/hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90 mmHg hoặc đang
điều trị thuốc THA
+ Tiền sử được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa, tiền đái tháo đường.
+ Phụ nữ có tiền sử  đái tháo đường thai kỳ,
sinh con to-nặng trên 4000 gam,

11
dấu hiệu của bệnh đái tháo đường

1. Đi tiểu nhiều hơn bình thường, đặc
biệt phải thức dậy giữa đêm để đi tiểu , hoặc sau khi tiểu thấy nước tiểu có
kiến bâu

2. Thường có cảm giác khát và khô miệng
uống nhiều nước mát

3. Sút cân

4. Mệt mỏi nhiều

5. Hay bị nhiễm trùng như mụn, nhọt hậu
bối, nhiễm nấm candida, lao phổi.

6. Giảm thị lực, nhìn mờ

7. Chậm liền vết thương hoặc để lại vết
thâm tím trên da

8. Cảm giác tê bì, nóng rát hoặc như kim
châm ở 2 chân.

9. Chân răng lung lay

10. Nhiều nam giới có biểu hiện giảm ham
muốn, liệt dương

11. Ăn nhiều nhưng lại rất nhanh có cảm
giác đói do rối loạn tiết insulin

12. Trên da có mảng tăng sắc tố ở vùng
cổ, nách, bẹn ( chứng gai đen)

Tuy nhiên đa số bệnh nhân ĐTĐ không có
triệu chứng trên lâm sàng nên thường được phát hiện muộn khi đã xuất hiện các
biến chứng như nhồi máu cơ tim, Tai biến mạch não, loét bàn chân, bệnh võng
mạc…

 Ai
nên đi xét nghiệm sớm đái tháo đường

– Người
 trên 45

tuổi

+
Trong gia đình có người mắc bệnh đái tháo đường ở thế hệ cận kề (bố, mẹ, anh,
chị em ruột, con ruột bị mắc bệnh đái tháo đường typ 2).

+ Hội
chứng buồng
trứng đa nang

+
Người có rối loạn lipid máu; đặc biệt khi HDL-c dưới 0,9 mmol/l và Triglycrid
trên 2,2 mmol/l.

+
Tiền sử bệnh tim mạch: nhồi máu cơ tim, đột quị

Để
chẩn đoán ĐTĐ cần xét nghiệm máu tĩnh mạch, không dựa vào xét nghiệm   nước tiểu. Có 3 xét nghiệm khác nhau mà bác sĩ của bạn có thể dùng
để xem bạn có bị đái tháo đường hay không. Mỗi xét nghiệm đánh
giá tình trạng đường máu của bạn
theo hướng khác nhau; bác sĩ sẽ chỉ dẫn đúng cho bạn:

Ø Xét nghiệm đường máu lúc đói (FPG)

Ø Xét nghiệm dung nạp đường bằng nghiệm pháp uống đường glucose
75gr

Ø Xét nghiệm Hemoglobin A1c

Hiện nay các
thầy thuốc chẩn đoán ĐTĐ khi có 1 trong các tiêu chuẩn dưới đây:

Glucose huyết tương bất kỳ ≥ 11,1 mmol/l kèm
theo các triệu chứng của tăng glucose huyết tương (khát nhiều, tiểu nhiều, ăn
nhiều, gầy sút).


Glucose huyết tương lúc đói (nhịn ăn > 8
giờ )
7 mmol/l trong 2 buổi sáng khác nhau.


Glucose huyết tương 2 giờ sau khi uống 75 g glucose≥ 11,1 mmol/l  (Nghiệm pháp tăng đường huyết).


HbA1c≥ 6.5 %(
định lượng bằng phương pháp sắc ký lỏng
theo tiêu chuẩn chương trình chuẩn hóa glycohemoglobin quốc gia)

Người
mắc bệnh đái tháo đường không nên ăn miến dong

Về nguyên tắc thì không có bất cứ loại
thức ăn nào được coi là cấm với bệnh nhân ĐTĐ. Chế độ ăn được khuyến cáo cho người ĐTĐ
là ăn cân bằng đủ chất dĩnh dưỡng và tương tự người không mắc tiểu đường, điều
khác biệt là người ĐTĐ nên chú ý nhiều hơn tới lượng chất bột đường được dùng trong
từng bữa ăn, thời điểm ăn và biết cân bằng khối lượng ăn với mức đường máu tùy
theo từng thời điểm. Không có chế độ ăn áp dụng chung cho mọi bệnh nhân mắc ĐTĐ. Để xây dựng chế độ ăn cho 1 người mắc ĐTĐ cụ thể các
bác sỹ cần phải đánh giá một cách tổng thể như thể trạng người đó béo hay gầy
hay cân nặng bình thương, mức độ vận động, thói quen ăn uống sinh hoạt, sở thích, mức độ đường máu và
mỡ máu hiện tại, các bệnh liên quan khác như suy thận, tăng huyết áp, gút,
tăng mỡ máu và điều kiện kinh tế.

Chúng ta đều biết miến dong là loại thực phẩm cung
cấp chất bột đường cho cơ thể . Để đánh giá mức độ ảnh hưởng
của thực phẩm làm lên sự thay đổi đường huyết như thế nào?  người ta phải chuẩn hoá thực phẩm với cùng một
số lượng chất bột đường là 50gram như nhau và lấy đường glucose hay bánh mì
trắng làm chuẩn với giá trị là 100, gọi là chỉ số đường huyết của thực phẩm –
Glyceamic Index (GI). Các loại thực phẩm làm tăng đường huyết nhanh sẽ có GI
cao từ 70 trở lên, mức GI trung bình là từ 56 đến 69, GI thấp dưới 55 sẽ là
những loại thực phẩm làm tăng đường huyết chậm, chính vì vậy khi lựa chọn thực phẩm các
chuyên gia dinh dưỡng thường khuyên cáo người bệnh
ĐTĐ nên lựa chọn nhóm các thực phẩm có chỉ số GI thấp và trung bình cũng như
hạn chế tránh
sử dụng nhóm có chỉ số GI >70,

Miến
dong được làm
từ bột củ dong, mặc dù củ dong là loại ngũ cốc có chỉ số tăng đường huyết ( GI
=32 ) thấp và nhiều chất xơ nhưng được tinh chế thành miến dong thì thành phần
xơ giảm thấp , lượng đạm thấp và chỉ số GI =  93  cao do vậy
khi sử dụng có thể ảnh hưởng nhiều tới glucose máu sau ăn,
chính vì vậy các chuyên gia dinh dưỡng tư vấn nên tránh ăn miến dong với người ĐTĐ.
Tuy nhiên với bệnh nhân ĐTĐ có suy thận cần
hạn chế lượng đạm nguồn gốc từ thực vật như từ gạo thì miến dong có thể là sự
lựa chọn thay thế cho gạo. Trong trường hợp không biết có nên ăn miến dong hay không
người bệnh có thể trao đổi trực tiếp với bác sỹ điều trị hoặc các chuyên gia
dinh dưỡng.  Các chuyên gia khuyến cáo nên ăn ngũ cốc toàn phần sẽ có lợi hơn
cho sức khoẻ vì còn đủ vitamin và khoáng chất, chất xơ, ví dụ như khi ăn gạo lức nhiều người thấy đường máu tăng ít
hơn (tác dụng giảm đường máu của chất xơ) so với  hạt gạo khi đã tinh chế (như bún chẳng hạn) bị loại bỏ phần xơ và
vitamin nên không còn nhiều dưỡng chất bằng hạt gạo xay giã dối (cơm gạo lức). Ngoài ra người bệnh cũng có
thể tự nhận biết mức độ tăng đường máu của  từng loại thức ăn với bản thân thông qua việc
tự thử glucose máu sau ăn 1 h hoặc 2h của các bữa ăn, nếu glucose máu sau ăn
tốt thì có thể khẩu phần ăn đó phù hợp.

Khi có triệu chứng nghi ngờ ĐTĐ hoặc các nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ ở trên cần
đến các cơ sở chuyên khoa về nội tiết để được phát hiện sớm, chẩn đoán đúng và
điều trị kịp thờ
i nhằm ngăn ngừa và hạn chế các biến chứng của ĐTĐ

                                                                                                        Bài: Đỗ Hằng 


086 9587728
[contact-form-7 id="6" title="Đặt hàng"] Đóng
[contact-form-7 id="508" title="Liên hệ"] Đóng