Dấu hiệu bị hẹp van động mạch chủ

Hẹp van ĐMC do
thoái hoá và vôi hoá. Ảnh minh hoạ
Khi
các lá van hẹp nhẹ dày hoặc thô ráp (xơ hoá van động mạch chủ) hoặc giãn
động
mạch chủ có thể gây ra tiếng thổi và rung điển hình mà không gây ra rối
loạn
huyết động rõ rệt. Ở những trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình, dấu hiệu
đặc
trưng là tiếng thổi tâm thu ở vùng van động mạch chủ lan lên cổ và xuống
mỏm.
Trong những ca bệnh nặng, sự phập phồng của thất trái hoặc rung miu có
thể sờ
thấy rõ rệt, tiếng thứ hai của van động mạch chủ yếu hoặc mất hay có sự
tách
đôi đảo ngược của tiếng thứ hai. Bình thường diện tích van là 3-4cm2,
khi diện
tích van dưới 0,8-1 cm2, thời kỳ tâm thu của tâm thất dài hơn và kiểu
nảy chậm
và yếu điển hình ở động mạch cảnh, tuy nhiên dấu hiệu này không đáng tin
cậy ở
những người già bị xơ cứng động mạch nặng. Phì đại thất trái tăng dần,
dẫn tới
tăng áp lực tâm trương. Cung lượng tim vẫn được duy trì cho tới khi van
bị hẹp
nặng, với diện tích lỗ van dưới 0,8cm2. Bệnh nhân có thể có suy thất
trái, đau
ngực hoặc ngất. Triệu chứng suy thất trái có thể tiến triển dần dần.
Nếu
khám bệnh bình thường, thì việc đánh giá bệnh hẹp van động mạch chủ có
thể là
khó, đặc biệt ở những bệnh nhân cao tuổi. Vì vậy cần làm các xét nghiệm
để xác
định bệnh. Điện tâm đồ có thể thấy dày thất trái hoặc những thay đổi tái
cực ở
hầu hết các bệnh nhân, nhưng cũng có thể bình thường ở trên 10% số ca
bệnh.
Chụp Xquang ngực có thể cho thấy bóng tim bình thường hoặc to, song dễ
phát
hiện sự cacli hoá van động mạch chủ. Siêu âm cũng cho thấy những dấu
hiệu calci
hoá van động mạch chủ, sự mở cửa van và độ dày của thành cũng như chức
năng
thất trái. Siêu âm Doppler có thể ước lượng sự chênh áp qua van động
mạch chủ.
Những kết quả xét nghiệm này có thể loại trừ hoặc chẩn đoán khá chính
xác các
trường hợp hẹp nặng. Tuy nhiên đối với bệnh nhân có tắc nghẽn vừa phải,
nhất là
có cung lượng tim thấp hoặc đồng thời bị hở van thì những đánh giá này
có thể
không chính xác. Phương pháp thông tim là thăm dò chẩn đoán xác định
chính xác,
vì có thể đo độ chệnh áp qua van và tính toán được diện tích lỗ van. Khi
diện
tích lỗ van dưới 0,8cm2 là bệnh nhân đã bị hẹp nặng. Chụp gốc động mạch
chủ có
thể xác định mức độ hở van động mạch chủ. Một xét nghiệm cần thiết cho
chẩn
đoán và điều trị là chụp động mạch vành cho tất cả các bệnh nhân người
lớn bị
hẹ p van động mạch chủ.
Chữa trị và phòng bệnh
Một
bệnh nhân bị hẹp van động mạch chủ, nếu đã xảy ra suy tim, đau thắt ngực
hoặc
ngất mà không được phẫu thuật thì tiên lượng bệnh sẽ xấu, với tỷ lệ tử
vong sau
3 năm là 50%. Tuy điều trị bằng thuốc có thể làm ổn định suy tim, nhưng
tất cả
những bệnh nhân có triệu chứng, kể cả những bệnh nhân có rối loạn chức
năng
thất trái phải được phẫu thuật để điều trị triệt để. Các bệnh nhân không
có
triệu chứng phải cảnh giác với nguy cơ tử vong đột ngột. Những trường
hợp có
chênh áp qua van nặng, trên 60-80mmHg, hoặc phì đại thất trái nặng cần
phải
thay van. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong phẫu thuật đối với thay
van là
2-5% và tăng lên tới 10% ở những bệnh nhân trên 70 tuổi. Cần dùng thuốc
warfarin chống đông máu là cần thiết đối với van cơ học nhưng không nhất
thiết
phải dùng với van giả sinh học. Van giả sinh học thường bị thoái hoá và
cần
phải phẫu thuật lại sau 7-10 năm. Sau phẫu thuật nhiều bệnh nhân tiếp
tục có
rối loạn dẫn truyền hoặc rối loạn nhịp thất. Gần đây, nhiều cơ sở y tế
đã dùng
phương pháp nong van bằng bóng cho bệnh nhân hẹp van động mạch chủ. Kết
quả hẹp
có thể giảm bớt trong hầu hết các trường hợp nhưng tỷ lệ tử vong của thủ
thuật
này gần bằng với tỷ lệ tử vong của phẫu thuật. Hẹp lại xảy ra vào khoảng
50%
các trường hợp trong 6-12 tháng đầu. Phương pháp này nên được cân nhắc
chỉ hạn
chế sử dụng cho những người khó có khả năng phẫu thuật hoặc đó là biện
pháp
trung gian nhằm ổn định cho những bệnh nhân có nguy cơ cao trước khi
phẫu
thuật.
Phòng
bệnh tốt nhất là điều trị triệt để bệnh thấp tim. Phòng và chữa các bệnh
tim
mạch như bệnh mạch vành, vữa xơ mạch máu, đái tháo đường, bỏ rượu, thuốc
lá,
thuốc lào.
|
Bệnh |
Theo SK&ĐS

