Phát hiện sớm để kiểm soát
bệnh tốt
Theo các bác sĩ (BS) chuyên khoa,
UTG thường không có triệu chứng đặc biệt ở giai đoạn đầu và nếu có cũng
rất mơ
hồ. Do đó, nó dễ bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn với các bệnh khác. Cho đến khi
người
bệnh phát hiện những triệu chứng lâm sàng rõ rệt như: sụt cân, bụng
chướng,
buồn nôn, đau nhiều ở hạ sườn phải… thì đã muộn vì bệnh đã vào giai
đoạn cuối.
Lúc này, tiên lượng bệnh thường là xấu, khả năng sống chỉ khoảng 2 – 3
tháng.

CT
Scan, chụp mạch máu gan, MRI, siêu âm Doppler: chẩn đoán gần như chính
xác,
giúp phát hiện các tổn thương, đánh giá xâm lấn mạch máu, và di căn
ngoài gan
Vì vậy, có
đến 80% bệnh nhân (BN) được phát hiện UTG thường ở giai đoạn cuối.
Qua thực tế điều trị, các bác sĩ
chuyên khoa cho biết: với khối u nhỏ, BN có thể chỉ cảm thấy mệt mỏi
không rõ
nguyên nhân, ăn uống giảm sút, cảm giác tức hạ sườn phải nhưng không
đáng kể.
Nhiều người lầm tưởng mình chỉ bị chứng khó tiêu. Vì vậy, không nên chủ
quan
với bất cứ một triệu chứng khác thường nào, đặc biệt cẩn trọng với các
triệu
chứng kể trên.
Ngoài ra, nếu có dấu hiệu nghi ngờ,
BN có thể đến các bệnh viện để được tầm soát bệnh.
Siêu âm: có giá trị tầm soát. CT Scan,
chụp mạch máu gan, MRI, siêu âm Doppler: chẩn đoán gần như chính xác,
giúp phát
hiện các tổn thương, đánh giá xâm lấn mạch máu, và di căn ngoài gan.
Alphafetoprotein (AFP): xét nghiệm
lượng AFP trong máu. Nếu nồng độ AFP trong máu cao hơn 400ng/ml, chứng
tỏ BN có
nguy cơ mắc UTG.
Sinh thiết gan: qui trình lấy mẫu mô
từ gan để giúp xác định mức độ và phạm vi tổn hại của gan. Sinh thiết
gan
thường được coi là tiểu phẫu. Các BS cho rằng nếu phát hiện sớm, bệnh
hoàn toàn
có thể được kiểm soát.
Lựa chọn phương pháp điều trị
Hiện có 3 mục tiêu điều trị đối với
BN UTG là: điều trị triệt để: lấy bỏ phần gan có khối u hoặc phá hủy
hoàn toàn
khối u; điều trị bảo tồn: giảm thể tích khối u, ngăn chặn u phát triển,
cải
thiện chất lượng sống và điều trị hỗ trợ: cải thiện triệu chứng lâm
sàng, điều
trị các yếu tố nguy cơ, cải thiện chức năng gan.
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:”Table Normal”;
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:””;
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:”Times New Roman”;
mso-ansi-language:#0400;
mso-fareast-language:#0400;
mso-bidi-language:#0400;}
|
Các |
Đối với UTG, một số phương pháp điều
trị thường dùng cho các loại UT khác (hóa trị, xạ trị…) hầu như không
có tác
dụng lên BN. Hiện nay phổ biến nhất vẫn là các phương pháp điều trị:
-
Ghép gan, mổ cắt một phần gan có
chứa khối u.
-
Phương pháp tiêm cồn vào khối u:
phương pháp này được áp dụng với những khối u gan nhỏ hơn 3cm, nhằm làm
chết tế
bào UT.
-
Dùng phương pháp hóa dầu thuyên
tắc mạch (TACE): làm tắc mạch máu nuôi khối u, làm chết tế bào UT.
-
Dùng thuốc ức chế sự tăng trưởng
của khối u: Đây là một bước tiến mới trong điều trị UTG. Sorafenib
(Nexavar®)
được chỉ định điều trị UT biểu mô tế bào gan, nhắm vào các tế bào ác
tính và
giảm lượng máu tới nuôi dưỡng khối u. Thuốc sẽ không chữa khỏi bệnh
nhưng nó
trì hoãn quá trình tiến triển của bệnh một cách đáng kể. Mới đây, Bộ Y
tế cũng
đã cấp phép lưu hành cho loại thuốc này trên thị trường Việt Nam. BN có
thẻ bảo hiểm y tế từ 3
năm trở lên sẽ được thanh toán 50% chi phí khi có chỉ định dùng
Sorafenib trong
điều trị UTG. Điều này cũng góp phần làm giảm gánh nặng chi phí cho BN,
trong
khi giá thành của thuốc còn khá cao so với điều kiện kinh tế của người
bệnh
nước ta hiện nay.

