Cuộc chiến với “căn bệnh của quỷ”
Bệnh đậu mùa được thừa nhận là một trong những
dịch bệnh đáng sợ nhất trong lịch sử nhân loại. Thời Trung cổ, hết vụ dịch này
đến vụ dịch khác liên tiếp bùng nổ trên khắp các nước châu Âu. Khoảng 50% dân
chúng mắc bệnh và tỷ lệ tử vong lên đến 30%. Những người sống sót thường phải
chịu hậu quả nặng nề: mù lòa, tàn tật, biến dạng khuôn mặt vĩnh viễn.

Edward Jenner – Người chiến
thắng bệnh đậu mùa.
Để chống lại những dịch bệnh truyền nhiễm này,
ngay từ thời Thượng cổ, con người đã biết cách chủ động làm cho mình nhiễm bệnh
ở mức độ nhẹ để tránh không bị lây bệnh nặng từ người khác. Bởi khi đó người ta
đã phát hiện ra rằng nếu ai từng mắc căn bệnh truyền nhiễm nào đó rồi thì hiếm khi
mắc lại bệnh đó lần thứ hai. Cách đây gần 1.000 năm, người Trung Quốc cũng đã
biết lấy các vảy mụn trên người bị mắc bệnh đậu mùa ở thể nhẹ nghiền thành bột
rồi thổi vào mũi người lành để phòng bệnh. Tại nhiều nước Trung Á, người ta
dùng kim hút mủ từ các nốt đậu mùa của người bệnh rồi truyền vào da người khỏe
mạnh…
Đến năm 1796, Edward Jenner – một người xuất thân
từ nhân viên học việc trong một phòng khám ngoại khoa đã nghĩ ra cách dùng mủ
nốt đậu bò thay thế cho mủ nốt đậu người và đề xuất phương pháp tiêm chủng
“an toàn” có thể phòng được bệnh đậu mùa, mặc dù lúc đó con người
chưa hề biết căn nguyên gây bệnh là một loài virut. Phương pháp của Jenner sau
đó đã được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới để rồi tiến tới xóa sổ hoàn
toàn căn bệnh của quỷ này trên trái đất.
Người có công đầu
Edward Jenner chào đời ngày 17/5/1749 tại thị trấn
Berkeley, quận Gloucester, miền tây nam nước Anh. Năm 14
tuổi cậu bé Jenner được gửi đến Sudbury gần Bristol để theo học việc
thầy thuốc ngoại khoa Daniel Ludlow. Trong thời gian học việc, cậu nghe một
người phụ nữ vắt sữa bò nói rằng người mắc bệnh đậu bò sẽ không bao giờ mắc
bệnh đậu mùa nữa. Khi ấy, thầy của Jenner chỉ mỉm cười và không lưu tâm gì đến
câu chuyện này, cho rằng đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên hoặc là sự mê tín của
nhiều nông dân miền quê. Đối với Jenner, mặc dù chuyện này không gây ấn tượng
mạnh mẽ nhưng vẫn còn đọng lại trong ký ức ông. Năm 21 tuổi, Jenner chuyển đến London học tại bệnh
viện St.Georges. May mắn thay, anh được nhận làm
học trò phụ việc cho thầy thuốc ngoại khoa danh tiếng nhất thủ đô John Hunter.
Sau 2 năm học việc, Jenner rời London
trở về quê hành nghề khám chữa bệnh cho bà con nông dân trong vùng.
Một lần đi khám bệnh, Jenner nghe một cụ già kể
chuyện: “Tôi làm nghề vắt sữa bò nên đã mắc bệnh đậu bò, chỉ còn lại vài
vết sẹo mờ nhạt trên tay và chẳng bao giờ tôi mắc bệnh đậu mùa nữa”.
Jenner nhớ lại câu chuyện tương tự đã từng nghe tại Sudbury và tự hỏi: liệu có thể dùng mủ đậu bò
để chống đậu mùa được không? Cách này có hiệu quả và an toàn hơn cách dùng mủ
của chính người mắc bệnh đậu mùa như người xưa từng làm không? Jenner quyết
định viết thư cho thầy Hunter thổ lộ nỗi băn khoăn của mình. “Đừng suy
nghĩ nhiều, hãy bắt tay vào thử nghiệm đi”, câu trả lời dứt khoát của thầy
Hunter đã thúc đẩy Jenner lao vào công việc.

Edward Jenner tiến hành chủng
ngừa virut đậu mùa cho cậu bé 8 tuổi.
Qua những quan sát tinh tế, phân tích tỉ mỉ rồi
kiên nhẫn thử nghiệm, Jenner nhận thấy rằng chủ động gây bệnh đậu bò có thể
phòng được bệnh đậu mùa cho người. Ngày 14/5/1796, cơ hội đã đến. Cô Sarah
Nelmes làm nghề vắt sữa bò bị mắc bệnh đậu bò và trên bàn tay có những nốt mủ
nhỏ. Jenner thận trọng trích lấy một ít dịch mủ rồi nhỏ lên vết rạch dài khoảng
1cm trên cánh tay cậu bé trai 8 tuổi James Phipps. Bảy ngày sau James nổi hạch,
sốt rồi hồi phục hoàn toàn. Chỗ da chủng ngừa chỉ để lại vết sẹo mờ nhạt. Tiếp
theo, ngày 1/7, Jenner lấy mủ của người mắc bệnh đậu mùa chích cho James rồi
chờ đợi. Đúng như ông dự đoán, không một điều gì xảy ra. Nhưng vẫn chưa yên
tâm, Jenner tiếp tục thử nghiệm trên 23 trường hợp nữa và đều thành công.
Phương pháp của Jenner được gọi là vaccination (từ tiếng Latinh: Vacca nghĩa là
bò cái và vaccainae nghĩa là bệnh đậu bò), tức là sử dụng virut sống độc lực
yếu hơn tạo ra đáp ứng miễn dịch chống lại virut độc lực mạnh hơn. Năm 1796,
Jenner công bố kết quả nghiên cứu tại Hội Hoàng gia, tuy nhiên tổ chức khoa học
uy tín nhất nước Anh này đã tiếp nhận kết quả trên một cách thờ ơ và hờ hững.
Jenner trở về Berkeley lại vùi đầu vào chú thích, ghi chép
và hoàn tất bản thảo “Nghiên cứu căn nguyên và hiệu quả của tiêm chủng đậu
mùa”. Ít lâu sau, cuốn sách của Jenner được phát hành và gây nên một cuộc
tranh luận dữ dội. Nhiều người phản đối và buộc tội Jenner. Có lẽ họ quá tin
vào những lời đồn đại kiểu như: “Những người được tiêm chủng sẽ mọc sừng,
tiếng kêu như bò rống, lông lá mọc khắp người…”. Thế nhưng, chính những
trận dịch liên tiếp xảy ra sau đó đã vô tình “ủng hộ” ông. Một số
người vì sợ nhiễm bệnh đã “liều mạng” áp dụng phương pháp của ông,
không ngờ kết quả đạt được ngoài mong đợi, đa số họ đều tránh được sự lây lan
của bệnh. Từ đó, phương pháp tiêm chủng đậu mùa dần lan rộng khắp nơi. Năm
1802, Ủy ban phòng chống bệnh đậu mùa được thành lập tại London và Jenner được bầu làm chủ tịch.
Đến năm 1967, bệnh đậu mùa – tai ương khủng khiếp
của nhân loại – đã được chế ngự, chỉ 31 nước còn lưu hành các vụ dịch đậu mùa.
Tổ chức Y tế Thế giới phát động chiến dịch thanh toán bệnh đậu mùa rộng khắp.
Và nạn nhân cuối cùng của bệnh này được ghi nhận tại Mercca, Somalia
ngày 26/10/1977. Sau 2 năm giám sát, ngày 9/12/1979, Ủy ban Thanh toán
bệnh đậu mùa xác nhận bệnh này không còn tồn tại trên trái đất và tháng 5/1980,
sự kiện này được Tổ chức Y tế Thế giới chính thức công bố.
Vào một ngày rét buốt tháng 1/1823, Jenner đột ngột
qua đời vì tai biến mạch máu não, lúc đó ông vừa tròn 74 tuổi, để lại cho nhân
loại lòng biết ơn to lớn bởi những gì ông đã cống hiến cho cuộc đời.
Lê Kiên (Theo The Daily Telegraph)
suckhoedoisong.vn

