Giảm tải tại chỗ
“Điểm nóng” về tình
trạng quá tải xuất hiện ngày càng nhiều, nhất là các chuyên ngành: ung bướu,
nhi, nội tiết… đòi hỏi ngành y tế và chính các bệnh viện phải có các biện pháp
nhằm giảm tải, giúp nâng cao chất lượng điều trị, hạn chế tiêu cực.
Bộ Y tế đã xây dựng và
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Giảm tải cho các bệnh viện giai đoạn
2013 – 2020 với hàng loạt các giải pháp cụ thể được triển khai. Theo đó, Bộ Y
tế tập trung đầu tư và cùng các địa phương tăng cường đầu tư xây dựng bệnh viện
từ tuyến huyện, tỉnh và trung ương. Các dự án xây mới và mở rộng, cải tạo trong
các năm 2012-2015 đang được đưa vào sử dụng. Tính riêng 15 dự án trọng điểm mới
đưa vào sử dụng như: Trung tâm Ung bướu và Tim mạch trẻ em (Bệnh viện Bạch
Mai); Khu điều trị 15 tầng (Bệnh viện Nhi T.Ư); Bệnh viện Nội tiết; Trung tâm
Ung bướu (Bệnh viện Chợ Rẫy); Bệnh viện T.Ư Huế; Tòa nhà kỹ thuật cao Bệnh viện
Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí… đã tăng thêm được
4.765 giường bệnh. Ngoài ra tiếp tục khởi công xây mới một số cơ sở khám, chữa
bệnh lớn như cơ sở hai của hai bệnh viện Bạch Mai, Hữu nghị Việt Đức; Bệnh viện
Chấn thương chỉnh hình 175; Bệnh viện Nhi đồng TP Hồ Chí Minh và Bệnh viện Nhi
Hà Nội.
Mỗi bệnh viện, tùy
theo thực tế của mình, xây dựng các phương án giảm tải khu vực điều trị nội
trú. Như Bệnh viện Nhi T.Ư, sau khi phân tích kỹ mô hình bệnh tật nằm điều trị
nội trú, Bệnh viện đã đưa ra và thực hiện quyết liệt năm nhóm giải pháp giảm
tải là: Sàng lọc bệnh nhi ngay từ khoa khám bệnh, tăng cường bác sĩ, mở thêm
phòng khám bệnh, thành lập thêm bộ phận chăm sóc ban ngày để theo dõi sát, tư
vấn hướng dẫn chăm sóc điều trị bệnh nhân, giảm số người bệnh không cần thiết
nhập viện. Tại khu nội trú, bệnh viện triển khai thêm được 300 giường bệnh; các
đơn vị nội trú thực hiện thống kê số lượng người bệnh tại ba thời điểm 8 giờ,
11 giờ và 16 giờ để điều chỉnh linh hoạt các khoa, phòng bảo đảm người bệnh
không phải nằm ghép. Bệnh viện yêu cầu các bác sĩ trưởng, phó khoa, các bác sĩ
giàu kinh nghiệm mỗi ngày phải đi khám, theo dõi người bệnh chặt chẽ ba lần.
Tăng cường các phương tiện cận lâm sàng để tăng khả năng chẩn đoán sớm, điều
trị kịp thời và tối ưu tại các khoa, giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhi.
Liên kết hệ thống với các bệnh viện chuyên khoa tuyến trung ương để hội chẩn
những ca bệnh nhân nặng, thực hiện việc chuyển viện phù hợp theo chuyên khoa…
Nhờ đó, từ đầu năm 2015, sau lễ ký cam kết đến nay, tại Bệnh viện Nhi T.Ư không
còn tình trạng nằm ghép.
Đến nay, 35 trong tổng
số 39 bệnh viện tuyến trung ương ký cam kết không để người bệnh nằm ghép giường
bệnh (với ba mức độ: ngay sau khi nhập viện; sau 24 giờ vào viện; sau 48 giờ
vào viện). Còn bốn bệnh viện hiện chưa ký cam kết nhưng đã triển khai các nội
dung được hướng dẫn. Tại TP Hồ Chí Minh có tới 29/31 bệnh viện tuyến cuối cam
kết không để người bệnh nằm ghép. Qua theo dõi, giám sát tại tuyến trung ương
có tới 80% số bệnh viện khẳng định không còn tình trạng người bệnh nằm ghép.
Giảm tải từ xa
Một khâu được cho là
đột phá giúp giảm quá tải bệnh viện tuyến trên là phát triển tuyến dưới để
người dân được khám, điều trị ngay tại địa phương mình. Theo đó, ngành y tế
cùng các địa phương tích cực triển khai Đề án bệnh viện vệ tinh giai đoạn
2013-2020 với việc hình thành mô hình bệnh viện vệ tinh của năm chuyên khoa
đang quá tải nhiều nhất là: sản, nhi, ung bướu, tim mạch, chấn thương chỉnh
hình. Đến hết năm 2015 có tổng số 15 bệnh viện tuyến cuối tham gia là bệnh viện
hạt nhân và 53 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tuyến dưới ở 38 tỉnh, thành phố
tham gia là bệnh viện vệ tinh.
PGS, TS Trần Văn
Thuấn, Phó Giám đốc Bệnh viện K cho biết, Bệnh viện K đã hỗ trợ tích cực sáu
bệnh viện vệ tinh là bệnh viện đa khoa các tỉnh: Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình,
Hòa Bình và Bệnh viện Bãi Cháy (Quảng Ninh). Hàng loạt gói kỹ thuật được chuyển
giao cho bệnh viện vệ tinh: phẫu thuật ung thư giáp trạng, phẫu thuật ung thư
vòm họng, phẫu thuật ung thư cổ tử cung, xạ trị ung thư thực quản, xạ trị ung
thư dạ dày, xét nghiệm mô bệnh học chẩn đoán ung thư…
Từ chỗ chỉ có bốn bệnh
viện chuyên khoa ung bướu và 19 khoa, đơn vị ung bướu, đáp ứng được khoảng 40%
nhu cầu khám bệnh ung bướu của nhân dân, đến nay số cơ sở chuyên khoa ung bướu
đã tăng lên sáu bệnh viện, 46 trung tâm, khoa, đơn vị ung bướu trên toàn quốc,
đáp ứng được hơn 70% nhu cầu khám, chữa bệnh ung bướu của nhân dân. Nếu như
trước đây có tới 90% số người bệnh ung thư tại Phú Thọ phải chuyển về Bệnh viện
K thì hiện tại chỉ còn dưới 5%. Trước đây, số lượng người bệnh tới Khoa Khám
bệnh tại cơ sở Quán Sứ là khoảng 1.500 người/ngày, hiện tại chỉ còn trung bình
400 người/ngày, cơ sở Tân Triều 400 người/ngày… Như vậy có thể nói, số lượng
người bệnh khám và điều trị tại Bệnh viện K có chiều hướng giảm, mặc dù qua
thống kê số lượng người bệnh ung thư ngày một gia tăng.
Bệnh viện Hữu nghị
Việt Đức là một trong số những đơn vị triển khai hiệu quả việc chuyển giao kỹ
thuật cho tuyến dưới thông qua đề án bệnh viện vệ tinh trong lĩnh vực ngoại
khoa. Bệnh viện chuyển giao thành công 12 gói kỹ thuật cho bảy bệnh viện vệ
tinh là bệnh viện đa khoa các tỉnh: Hà Giang, Điện Biên, Lào Cai, Quảng Ninh,
Ninh Bình, Thái Bình, Bắc Giang với 220 học viên tiếp nhận kỹ thuật. Sau chuyển
giao kỹ thuật, cán bộ y tế tuyến dưới được đào tạo bài bản, đúng quy trình kỹ
thuật; cập nhật được những kiến thức, phương pháp điều trị, phẫu thuật mới.
Nhiều kỹ thuật trước đây chưa thể triển khai, nay đã triển khai một cách thành
thạo và thường quy. Nhiều kỹ thuật trước đây có tỷ lệ chuyển tuyến là 100%
nhưng sau chuyển giao, giờ chỉ còn từ 5 đến 10%, có những kỹ thuật tỷ lệ chuyển
tuyến chỉ còn dưới 1%…
Thống kê của Bộ Y tế
cho thấy, các bệnh viện hạt nhân đã tổ chức được 386 lớp đào tạo chuyển giao kỹ
thuật cho 7.051 cán bộ chuyên môn, chuyển giao được 791 kỹ thuật từ bệnh viện
hạt nhân cho bệnh viện vệ tinh giúp giảm tỷ lệ chuyển tuyến từ tuyến dưới lên
tuyến trên, đạt từ 65 đến 100% số ca chuyển tuyến, như: Tim mạch: giảm tới
98,5%; Ung thư: giảm tới 97%; Ngoại khoa: giảm tới 98,5%; Sản khoa: giảm tới
99%; Nhi khoa: giảm tới 73% so với trước khi triển khai mô hình bệnh viện vệ
tinh. Giúp người dân không cần chuyển lên tuyến trên vẫn được điều trị và sử
dụng các kỹ thuật cao trong khám chữa bệnh, giúp giảm quá tải cho bệnh viện
tuyến trên và giảm chi phí cho người bệnh.
Đến nay, sau ba năm
thực hiện triển khai đề án giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013 – 2020 với tám
nhóm giải pháp cụ thể, tình trạng quá tải bệnh viện đang từng bước được giải
quyết. Trên cơ sở kết quả đạt được, Thủ tướng Chính phủ vừa chỉ thị tăng cường
các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, mở rộng mạng lưới bệnh viện vệ tinh. Theo
đó Bộ Y tế chỉ đạo các bệnh viện tuyến trên tăng cường chuyển giao kỹ thuật và
chuyên môn cho tuyến dưới, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, một tiêu chí
đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của các bệnh viện; công bố danh
sách các bệnh viện đủ tiêu chuẩn làm bệnh viện hạt nhân để các bệnh viện vệ
tinh lựa chọn đề xuất hỗ trợ chuyên môn.
|
Đết hết năm 2015, tỷ lệ giường bệnh đạt 32,1 giường |

