Như vậy những người hiếm muộn vẫn có thể có thai nhưng phải tác động của
chuyên môn mà thuật ngữ hay sử dụng danh từ mới là hỗ trợ sinh sản.

Minh họa những thời điểm nhạy cảm để phát
sinh khuyết tật bẩm sinh. Màu sẫm đậm chỉ mức độ nhạy cảm cao. Màu xanh nhạt
chỉ mức độ nhạy cảm thấp.Nguồn: Selevan và cộng sự – 2000
Xác định xem có thai hay không?
Sau khi kích hoạt tình dục hoặc bơm tinh trùng cũng như chuyển phôi vào buồng
tử cung thì 2 tuần sau người ta định lượng bêta HCG trong máu. Đặc biệt ở những
người thụ tinh trong ống nghiệm, sau khi chuyển phôi vào buồng tử cung thì sau
14 ngày phải xét nghiệm bêta HCG là một chất nội tiết do rau thai tiết ra và
đưa vào trong máu. Nếu xét nghiệm này dương tính (nghĩa là có mặt bêta HCG
trong máu thì gọi là có thai sinh hoá. Sau đó siêu âm đầu dò âm đạo. Nếu thấy
túi thai trong tử cung thì gọi là có thai lâm sàng. Tuỳ thuộc trong trường hợp,
người ta có thể định lượng bêta HCG nhiều lần để đánh giá sự phát triển của
thai và điều chỉnh thuốc thích hợp mục đích giúp cho thai phát triển tốt.
Thế nào là giảm thiểu phôi?
Trường hợp này thường xảy ra trong thụ tinh trong ống nghiệm bởi vì để đảm
bảo chắc chắn có thai, người ta thường chuyển 3-4 phôi tốt nhất vào buồng tử
cung để đảm bảo khả năng chắc chắn có thai. Nếu như cả 3 hoặc 4 thai đủ phát
triển tốt sẽ có nguy cơ có nhiều thai. Hậu quả thường dẫn đến bệnh lý cho thai
và người mẹ như tiền sản giật, sản giật hay hội chứng truyền máu thai nhi hay
thai nhi dính nhau, đặc biệt là đẻ thiếu tháng, nguy cơ tử vong và bệnh lý của
sơ sinh rất cao. Vì vậy người ta bơm trực tiếp dung dịch kaliclorua vào những
phôi kém nhất trong các phôi sống trong tử cung và các phôi này tự tiêu đi mà
không ảnh hưởng đến các phôi khác và chỉ giữ lại 1 đến 2 phôi tốt nhất.
Vấn đề siêu âm như thế nào?
Trước hết khẳng định siêu âm là rất cần thiết trong chăm sóc phụ nữ khi có thai
đặc biệt là những trường hợp hiếm muộn. Nói chung thứ tự một cách tương đối như
sau:
Trong quý 1 (3 tháng đầu): sau khi chậm kinh 1 tuần nên xét nghiệm nước tiểu
hoặc máu để xác định HCG để xác định có thai hay không. Sau 2 tuần cần siêu âm
đầu dò đường bụng hay đường âm đạo để xác định thai trong hay ngoài tử cung.
Nếu thấy túi thai trong tử cung thì chắc chắn là có thai trong tử cung. Trong
những trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm thì người ta chuyển 3 đến 4 phôi vào
trong buồng tử cung để phòng có những phôi không phát triển được, vì vậy siêu âm
lúc này là bắt buộc không những để xác định có thai lâm sàng mà nếu như 3 hoặc
4 thai cùng phát triển thì phải bỏ bớt thai đi vì nếu 3 hoặc 4 thai cùng phát
triển thì gọi là chửa nhiều thai sẽ dễ bị đẻ non thậm chí thai quá non. Các trẻ
sơ sinh non yếu dễ tử vong cho nên thường tiêm kaliclorua vào phôi để phôi tự
tiêu đi và chỉ giữ lại 1 đến 2 phôi tốt nhất.

Thai phụ nên siêu âm thai định kỳ để phát
hiện sớm bất thường
nếu có ở thai nhi.
Tuần thứ 12- 13 làm siêu âm 3 chiều để xác định xem thai nhi có biểu hiện bất
thường không, đặc biệt là phải đo độ dày da gáy. Tuần thứ 17 hoặc 18 siêu âm để
phát hiện các bệnh lý hoặc bất thường về hệ tim mạch. Thai phụ cũng được chọc
ối rồi nuôi cấy tế bào để phát hiện sai lạc ở nhiễm sắc thể. Tuỳ theo mức độ
nặng nhẹ và loại dị tật, mà quyết định giữ thai hay là bỏ thai đi. Việc chấm
dứt thai nghén (nôm na là bỏ thai đi) phải được hội chẩn cẩn thận xem xét mức
độ và loại dị tật, khả năng can thiệp sau sinh và khả năng sống sau sinh cũng
như sau can thiệp ở trẻ. Việc hội chẩn này được thông qua một hội đồng bao gồm
các nhà sản khoa, nhi khoa, ngoại khoa chuyên về phẫu thuật nhi, chẩn đoán hình
ảnh (siêu âm), những nhà di truyền học và xã hội học.
Khi thai được 22 tuần, thai phụ cũng cần được siêu âm 3 chiều để xác định
thai có bị dị tật không bởi vì lúc này thai đã lớn, việc quan sát thai trên hệ thống
siêu âm 3 chiều sẽ phát hiện bất thường về hình thái của thai nhi dễ dàng và
chính xác hơn. Nếu như thai có những bất thường thì việc phá thai cũng còn dễ
dàng và ít tai biến hơn. 3 tháng cuối hay tuần thứ 23 – 40 tuần: thời gian này
là thai đã hoàn chỉnh và lớn nhanh trong tử cung. Thông thường chỉ cần siêu âm
2 chiều là được để đánh giá sự phát triển của thai trong tử cung. Tuy
nhiên nên siêu âm có doppler (là một bộ phận của máy siêu âm) để đo chỉ số động
mạch tử cung xem có bị bệnh lý hay không vì động mạch tử cung cấp máu cho
thai qua bánh rau để tiên lượng thai có bị chậm phát triển trong tử cung không.
Xét nghiệm gì để phát hiện dị tật thai nhi?
3 tháng giữa (từ tuần 14 đến tuần thứ15): nên xét nghiệm Triple test
là một xét nghiệm xem thai nhi có nguy cơ bị các dị tật không. Nếu như xét nghiệm
thấy có nguy cơ cao, thai phụ sẽ được tư vấn về thai có thể bị dị dạng đặc biệt
là bệnh Down, là một bệnh rối loạn về nhiễm sắc thể, trẻ sinh ra thường tử vong
hoặc thiểu năng về trí tuệ, đần độn hoặc những dị tật hay các bệnh khác. Xét
nghiệm này người ta cũng dự đoán nguy cơ cao về bệnh Down cũng như dị tật ống
thần kinh của thai nhi với tuổi của người mẹ. Nếu nguy có cao thì chọc vào tử
cung rút dịch ối để nuôi cấy tế bào phát hiện bất thường về nhiễm sắc thể. Hiện
nay, với kỹ thuật hiện đại, cũng như tay nghề kỹ thuật cao, dưới sự hướng dẫn
của siêu âm, các tai biến cho mẹ và thai khi chọc ối rất thấp gần như không đáng
kể. Những tai biến thường gặp trong chọc ối là gây nhiễm khuẩn, sảy thai hoặc
chảy máu buồng ối, nhưng vẫn có thể khống chế ngăn cản được bằng kháng sinh,
thuốc chống cơn co tử cung và thuốc cầm máu.
Tại sao hay sinh sớm và có nên mổ lấy thai không?
Về nguyên tắc, khi thai đã đủ tháng (từ 38 – 40 tuần) mà thai nhi tương xứng
với khung chậu của người mẹ. Ví dụ người phụ nữ cao 1m50 trở lên, trong lượng
thai khoảng 3.000g thì thai vẫn có thể đẻ qua đường tự nhiên được. Nhưng do có
khó khăn và nguy cơ cao hơn cho nên tâm lý các thầy thuốc cũng như gia đình và
bản thân người hiếm muộn đều muốn chủ động mổ lấy thai nhưng tốt nhất là mổ lấy
thai khi hết tuần 39. Trong những trường hợp đặc biệt, nếu thai chưa được 38
tuần mà có nhiều nguy cơ cho thai khi thai còn trong tử cung thì người ta cũng
chủ động mổ lấy thai sớm hơn.
Chăm sóc em bé và sản phụ cũng như thực hiện các biện pháp tránh thai cho
người mẹ hoàn toàn giống như người có thai tự nhiên.
PGS.TS. Vương Tiến Hòa (Đại
học Y Hà Nội)
suckhoedoisong.vn

