
Gây tê bằng lidocain phải tuân thủ sự phân cấp quản lý.
Tác dụng phụ của lidocain
Khi
gây tê, lidocain phong bế dẫn truyền ở sợi trục thần kinh ở hệ thần
kinh ngoại vi, ảnh hưởng đến chức năng của tất cả các cơ quan mà sự dẫn
truyền xung động đi tới (thần kinh trung ương, các hạch tự động, khớp
thần kinh – cơ, các dạng cơ…), gây nguy hiểm cho các cơ quan này
(nhức đầu, hạ huyết áp, khó thở, loạn nhịp tim, block tim, trụy tim
mạch, ngủ lịm). Tác dụng phụ này lệ thuộc vào liều dùng.
Khi
điều trị rối loạn nhịp tim nếu dùng đúng liều, lidocain khá an toàn so
với các thuốc khác (như procainamid). Nhưng nếu tiêm tĩnh mạch nhanh,
nó có thể gây hội chứng yếu nút xoang, tăng mức block nhĩ – thất có từ
trước, đôi khi tăng tần số thất (trên người bệnh có rung nhĩ). Tai biến
này mất đi sau khi ngừng thuốc; sau khi dùng kéo dài hay khi dùng tiêm
tĩnh mạch liều cao (>150mg) nó có thể gây ra các nhiễm độc: chóng
mặt, dị cảm (vùng quanh miệng) buồn nôn, nôn, rối loạn thị giác vật vã,
lẫn lộn, rối loạn hô hấp, co giật, giảm sức co bóp cơ tim, nhịp tim
chậm, giãn mạch ngoại vi, hạ huyết áp, trụy mạch (thường xảy ra ở người
già có suy gan, suy thận, suy tim).
Trong cả hai trường hợp dùng
với liều điều trị thông thường, lidocain ít ảnh hưởng đến giao cảm,
nhưng nếu liều cao, nó ức chế giao cảm, dẫn tới ức chế sự co bóp của
cơ tim, giảm nhịp tim, giảm sức cản ngoại vi, hạ huyết áp, nặng hơn là
trụy mạch.Với người mẫn cảm, có thể gây dị ứng viêm da, co thắt phế
quản, nặng hơn shock phản vệ (dẫn tới tử vong).
Cũng do các tác
dụng phụ này, không được dùng lidocain cho những người có: hội chứng
Adams – stockes, block nhĩ – thất, rối loạn xoang – nhĩ (ở tất cả các
mức độ), suy cơ tim nặng, block thất (khi chưa đặt thiết bị tạo nhịp),
rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Tai biến xảy ra khi gây tê và dự phòng
Đường
dùng, liều lượng dùng gây tê khác với dùng điều trị loạn nhịp. Tuy
nhiên, trong gây tê, lidocain vẫn gây ra các tác dụng phụ trên tim
mạch, đặc biệt là khi gây tê sâu và rộng. Vì vậy, trước khi gây tê
phải chuẩn bị sẵn các phương tiện cấp cứu nhằm phòng các phản ứng phụ
liên quan đến thần kinh, hô hấp, tim mạch. Dùng phối hợp với chất co
mạch epinephrin (dung dịch 0,0001%) sẽ kéo dài thời gian gây tê. Nhưng
tránh phối hợp này khi gây tê gần ngón tay hay quy đầu vì có thể gây
hoại tử. Không được tiêm vào mạch. Khi tiêm để gây tê, phải kiểm tra để
phòng tiêm lạc vào mạch. Nếu tiêm thuốc lạc vào mạch, dễ gây ra các
tác dụng phụ trên tim mạch. Khi tiêm vào mạch, dưới nhện vùng đầu, cổ,
hậu nhãn cầu, quanh chân răng… dễ gây nguy cơ ngừng hô hấp. Khi dùng
lidocain phong bế ngoài màng cứng, vùng dưới nhện dễ gây nguy cơ hạ
huyết áp, chậm nhịp tim. Cần có sẵn dịch truyền, thuốc vận mạch, ôxy
cấp cứu kịp thời.
Phong bế ở giao cảm, lidocain có thể gây tụt
huyết áp mạnh, chậm nhịp tim. Lidocain làm giảm đau trong sản khoa, ít
tác dụng phụ. Tuy nhiên, khi phong bế cạnh cổ tử cung có thể gây chậm
nhịp tim thai, liều cao có thể gây chết thai.
Lidocain có phản ứng với kim loại, gây kích ứng nặng chỗ tiêm, tránh để tiếp xúc lâu với kim loại (kể cả kim loại ở ống tiêm).
Phải
giảm liều với người cao tuổi, người có sức khỏe yếu, người bị bệnh cấp
tính, người có tình trạng sinh lý và thần kinh bất thường. Thận trọng
với người tăng thân nhiệt ác tính di truyền.
Liều quy định không
được vượt quá 3mg/kg và phụ thuộc vào phương thức gây tê. Liều gây độc
lệ thuộc vào từng người, phụ thuộc vào chỉ đinh và thủ thuật tiến hành
gây tê. Khi dùng gây tê, nếu tiêm nhầm vào khoang dưới nhện và nếu nồng
độ trong huyết tương cao thì sẽ bị nhiễm độc do quá liều (bồn chồn lo
lắng, nhìn mờ, run, ngủ gà, co giật mất ý thức, có thể ngừng thở, hạ
huyết áp, ngừng tim). Lúc này việc xử lý hết sức phức tạp. Đây là những
cách cấp cứu mà chỉ ở tuyến cao mới làm được.
Việc gây tê bằng
lidocain có phạm vi kỹ thuật khá rộng: tiêm ngấm dưới da gây tê cho
phẫu thuật nhỏ (dung dịch 0,25%-0,5%, 2-5ml), cho phẫu thuật lớn (dung
dịch 0,5%, 100ml); gây tê ngoài màng cứng (dung dịch 0,5-2%, 20-30ml).
Danh mục thuốc dùng trong khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho phép dùng
lidocain loại ống tiêm 1-2-5ml dung dịch 1-2% tại các bệnh viện tuyến
1-2-3-4 và các phòng khám đa khoa, các đơn vị y tế có bác sĩ nhưng
theo hướng dẫn dùng danh mục này thì khi dùng các kỹ thuật chuyên khoa
(như trường hợp gây tê này) thì phải theo đúng hướng dẫn phân cấp
quản lý và thực hành kỹ thuật. Những cơ sở không đủ các điều kiện
(trình độ, nhân lực, phương tiện) nếu dùng sẽ dễ bị tai biến, khi tai
biến xảy ra không thể cấp cứu được. Để tránh các tai biến của
lidocain trong gây tê phải:
– Biết rõ tai biến shock phản vệ, tai biến tim mạch khác do lidocain gây ra để chủ động dự phòng.
– Tuân thủ sự phân cấp quản lý và thực hành kỹ thuật chuyên khoa.
–
Nếu cơ sở không đòi hỏi làm gây tê nhằm thực hiện các phẫu thuật lớn
và khó, thì nên chọn dùng các thuốc gây tê tại chỗ (đáp ứng được mục
đích, góp phần hạn chế tai biến).
DS. Bùi Văn Uy – suckhoedoisong.vn

